Ảnh hưởng của Phật giáo Mật tông Ấn Độ
trong tín ngưỡng thờ Tứ Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ.
(Bài được in trên tạp chí Nguồn sáng Dân gian của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, số 4 – tháng 10,11,12 năm 2023).
Tóm tắt:
Vùng Dâu (thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có thể coi là cái nôi của Phật giáo nguyên thủy nước ta từ thế kỷ II sau Công nguyên. Đây là nơi khởi đầu của tục thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) – các nhiên thần Mây, Mưa, Sấm, Sét giúp cho mùa màng tốt tươi, muôn vật sinh sôi, nảy nở. Có thể coi tục thờ Tứ Pháp là tín ngưỡng phồn thực - một hình thức tín ngưỡng dân gian thể hiện ước vọng của người dân về sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người, về cuộc sống ấm no, đủ đầy trong nền văn minh lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ.
Tục thờ Tứ Pháp hàm chứa hai thành phần văn hóa, đó là văn hóa Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ du nhập và văn hóa dân gian bản địa của người Việt.
Ngoài ra, Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ (phật giáo Nam tông) được truyền vào nước ta đầu tiên có lẽ là dòng Mật tông nếu phân tích tư tưởng triết học của dòng Phật giáo này và những pháp khí (vật linh thiêng) thường thấy trong sự tích, truyền thuyết dân gian của dòng Mật tông.
Ở đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể về sự tích và tục thờ Tứ Pháp vùng Dâu (Bắc Ninh) trong sự dung hòa, tiếp biến với dòng Phật giáo Mật tông Ấn Độ. Bài viết này trình bầy những suy nghĩ, quan điểm của cá nhân tôi về ảnh hưởng của Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ (Đại thừa) trong sự dung hòa với tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp của người Việt.
Từ khóa: Phật giáo nguyên thủy; Phật giáo Đại thừa; Mật tông; Nguồn gốc Phật giáo Việt Nam; Phật giáo miền Bắc; Tín ngưỡng Tứ pháp.
1. Tư tưởng văn hóa của tục thờ Tứ Pháp và mối liên quan của nó với Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ.
Tìm hiểu, nghiên cứu về nguồn gốc du nhập của Phật giáo Việt Nam qua các sự tích dân gian như truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung trong sách Lĩnh Nam Trích Quái và truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương vùng Dâu (Bắc Ninh) cũng như việc thờ thần Đông An (Chử Đồng Tử) ở Kiến Thụy - Hải Phòng, tôi đều nhận thấy dấu ấn của văn hóa Phật giáo Ấn Độ trong đó.
1.1 Sự tích Tứ Pháp:
Thần tích về Phật Mẫu Man Nương được ghi lại trong nhiều thư tịch cổ như: Các văn bia (chẳng hạn “Phúc Nghiêm tự sự tích bi” ở chùa Tổ làng Mãn Xá); “Cổ chân Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục” ở chùa Dâu; Truyện dân gian (chẳng hạn sách “Lĩnh Nam Trích Quái”, “Truyền kỳ mạn lục”)... Các truyền thuyết này đều kể về sự tích Man Nương. Trong đó các tích truyện đều mang vẻ huyền bí, linh thiêng, nhuốm mầu sắc phép thuật của Mật tông.
- Truyền thuyết Man Nương ở chùa Dâu (Diên Ứng tự) thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh được ghi trong “Cổ chân Pháp Vân Phật
bản hạnh ngữ lục” mà bản khắc gỗ hiện còn lưu giữ ở chùa Dâu đại thể như sau:
Tại làng Mãn Xá vùng Dâu (nay thuộc Bắc Ninh) vào thời kỳ Thái thú Sĩ Nhiếp cai trị (giai đoạn nhà Hán đô hộ nước ta) có ông bà Tu Định là người mộ đạo, sinh người con gái tên là Man Nương. Đó là một cô gái trẻ 12 tuổi chất phác, chăm chỉ nhưng có phần thiệt thòi bởi tật nói lắp.
Khi đó có nhà sư Khâu Đà La người Tây Trúc, Ấn Độ có đạo pháp cao siêu, giỏi nhịn ăn, tu thiền định (có khả năng đứng một chân nhiều giờ liền). Ông lập am truyền đạo ở bờ sông Đuống. Ông Tu Định kính trọng sư, mời Khâu Đà La đến nhà tham vấn Phật pháp. Một tháng sau, sư từ biệt ra về, ông Tu Định ngỏ ý xin cho con gái theo sư học đạo. Sư nhận lời, từ đó Man Nương theo sư thụ pháp, nhưng vì cô có tật nói lắp không thể cùng các chúng tụng kinh nên thường ở dưới bếp nấu nướng phục vụ ăn uống cho các vị tăng. Một đêm, đợi các tăng ni tụng kinh lâu quá, cô ngồi tựa cửa bếp ngủ thiếp đi. Khi xong khóa tụng, không thấy cô mang cháo lên, sư Khâu Đà La xuống bếp tìm. Thấy cô ngủ, không nỡ gọi, bèn né người bước qua cạnh cô, khiến cô hoài thai. Chẳng bao lâu bụng to dần, cô xấu hổ bỏ về nhà. Cha mẹ Man Nương đến trách cứ Khâu Đà La, sư nói “Man Nương có thai là do nhân thiên hợp khí, ngày sau tất thành Đại pháp”. Đúng giờ ngọ ngày mùng 8 tháng tư âm lịch, Man Nương sinh một bé gái. Theo lời cha mẹ, cô mang con đến am trả cho Khâu Đà La. Nhà sư bèn trao cho cô một cây gậy phép và bảo cô khi nào trời hạn hán thì cắm gậy xuống đất sẽ có phép mầu cứu giúp chúng sinh. Sau đó nhà sư mang bé gái sơ sinh ra một cây Du (dâu) già cổ thụ (Du thụ), đặt vào hốc cây, đọc mật chú, gõ gậy tích trượng vào cây và nói: hãy nhận con ta, sau này tất được hưởng đại pháp. Hốc cây bèn liền lại, giấu đứa bé vào lòng.
Có năm trời đại hạn, ruộng đất nứt nẻ, mùa màng thất bát, dân chúng khổ sở. Man Nương nhớ lời sư Khâu Đà La dặn bèn cắm cây gậy phép xuống đất, tự nhiên trời liền đổ mưa, dân chúng thoát họa thiên tai.
Một năm, cây Du thụ gặp mưa to - gió lớn gẫy đổ suống dòng nước, trôi đến làng Mãn Xá, nơi có ngôi chùa mà sư cụ Man Nương trụ trì thì dạt vào. Dân làng hò nhau buộc dây kéo lên bờ nhưng cây không thể nào dịch chuyển. Man Nương bèn ra bờ sông tung dải lụa kéo nhẹ, bỗng dưng cây Du thụ dễ dàng được kéo lên. Sự lạ đến tai viên Thái thú Sĩ Nhiếp. Ông ta lệnh cưa cây thành 4 đoạn, tạc 4 pho tượng thần theo giấc mơ. Chỗ xưa kia đặt đứa con gái Man Nương xẻ ra thấy một tảng đá rất rắn, rìu đập vào đều bị mẻ. Bọn thợ quẳng tảng đá xuống sông, lập tức tảng đá tỏa sắc hào quang rồi chìm xuống nước. Đến khi rước tượng vào chùa, ba tượng xe chở rất nhẹ, còn tượng Pháp Vân nặng không thể dịch chuyển. Sĩ Nhiếp vương cho thợ tạc tượng đến hỏi, thợ tâu trong cây có hòn đá và đã vứt xuống sông, liền lệnh cho ngư dân đi mò tìm vì biết đó là vật thiêng. Khi mò thấy hòn đá thì không thể đưa nó lên vì rất nặng. Người ta lại mời Man Nương đến. Bà Man Nương năm đó đã 80 tuổi liền lên thuyền cất tiếng: Có phải con ta thì đi lên theo mẹ. Lập tức hòn đá nhảy vào lòng bà. Sĩ Nhiếp vương bèn lệnh tạc tảng đá thành tượng Thạch Quang để thờ ở chùa Dâu cùng pho tượng Pháp Vân và đặt tên là Thạch Quang Vương Phật.
Tượng tạc xong, người ta xin sư Khâu Đà La đặt duệ hiệu để thờ. Khi Sư đọc chú xin đặt pháp hiệu cho pho tượng thứ nhất: thấy mây kéo đến, mới gọi tượng là Pháp Vân. Dân chúng rước về thờ ở chùa Thiền Định (tên nôm là chùa Dâu của làng) và gọi là bà Dâu.
Khi xin duệ hiệu cho pho tượng thứ hai, thấy trời mưa nên gọi là Pháp Vũ. Dân chúng rước về thờ ở chùa Thành Đạo (tên nôm là chùa Đậu của làng) và gọi là bà Đậu.
Đến pho tượng thứ ba, thấy sấm mới gọi là Pháp Lôi, rước về Phi Tướng tự (chùa Tướng - nói lái tên nôm của làng Tương), và gọi là bà Tướng.
Khi xin duệ hiệu cho pho tượng thứ tư, thấy chớp mới gọi là Pháp Điện, rước về thờ ở chùa thôn Phương Quan (tên nôm xưa là Dàn Câu), nên gọi là bà Dàn.
Theo truyền ngôn, khi làm 4 pho tượng Tứ Pháp đó, không phường thợ nào quét sơn mà bám vào được, có mỗi thợ của làng Keo ở gần đó thì làm được. Sau đó thợ lành Keo xin thỉnh phần gỗ ngọn của cây Dung Thụ còn lại, cũng tạc thành một bức tượng Pháp Vân, hiện vẫn thờ ở chùa Keo thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc xưa (nay là xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
Còn bà Man Nương về sau qua đời không bệnh tật. Bà được tôn là Phật Mẫu (mẹ Phật) và được thờ ở chùa Phúc Nghiêm làng Mãn Xá (Thuận Thành, Bắc Ninh), phối thờ ở chùa còn có cha mẹ bà là vợ chồng ông Tu Định cùng nhà sư Khâu Đà La. Hiện ở chùa Mãn Xá (tên nôm làng Mèn) – chùa Tổ ở thôn Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có 4 pho tượng chính thờ những nhân vật này.
Sau này người ta đặt ngày Mùng 8 tháng Tư (ngày con gái bà Man Nương ra đời) là ngày đản sinh của Phật nước ta và tổ chức lễ hội lớn vào hai dịp: Ngày 17 tháng Giêng - ngày hóa của Phật Mẫu Man Nương và ngày mùng 8 tháng Tư âm lịch - ngày sinh Phật. Khi đó họ rước các pho tượng Tứ Pháp từ các chùa về chùa Tổ làng Mãn Xá bái Phật Mẫu Man Nương, hết Hội lại rước về. Khi cầu mưa, người ta tế bái các chùa Tứ Pháp, khi cầu tạnh người ta mở cửa chùa ra, khiêng rước tượng tới chùa Tổ Phúc Nghiêm cầu cúng. Truyền ngôn kể lại, nhiều khi cầu cúng xong lập tức mưa liền tạnh.
Lễ hội vùng Dâu vào ngày Phật Đản trở thành lễ hội quan trọng trong tín ngưỡng thờ Tứ Pháp. Điều này được thể hiện qua câu ca dao: “Dù ai đi đâu về đâu/ Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Nhớ ngày mồng 8 thì về hội Dâu”.
Tuy nhiên từ sau kháng chiến chống Pháp người ta không còn tổ chức được lễ rước tượng Tứ Pháp về chùa Tổ ngày hội nữa, do dân 2 làng Dâu và Đậu tranh chấp nhau pho tượng Pháp Vũ (hiện đang để ở chùa Dâu khi chùa Đậu bị tàn phá trong kháng chiến chống Pháp).
- Về sự linh thiêng của Tứ Pháp.
Bia “Phúc Nghiêm tự sự tích bi” được dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 12, khắc lại năm Tự Đức 26 (1873) ở chùa Tổ Phúc Nghiêm có ghi lại như sau:
“Thời Tam quốc, Đào Hoành làm thái thú Giao Châu nghe thấy tiếng Tứ Pháp linh thiêng, đã lệnh cho xây đàn lớn, không được xâm phạm, hương hoả cung kính; mỗi khi gặp dịch bệnh thì phụng quốc mệnh cầu đảo, tai ương lập tức qua khỏi. Thời Tấn, Đào Khản làm thái thú Giao Châu, muốn rước tượng về nước, lấy hàng ngàn tráng sĩ hợp sức di chuyển cũng không được. Thời Tùy, sai Lưu Phương đến châu của ta tìm đến Tam tổ chùa Tứ Pháp yết bái để thoả sự mong mỏi. Đường Xương khi rời qua châu của ta đã đích thân đến chùa Phúc Nghiêm, lệnh cho chép lại sự tích để dâng lên vua Đường. Nước ta đến mùa thu năm đầu thời Lý Nhân Tông, mưa mãi không tạnh, ngài đã đích thân đến cầu mưa tạnh. Năm Thái Ninh thứ 3 gặp đại hạn, vua lệnh cho rước tượng Phật vào Thủy Tinh điện, thân cung pháp phục dâng hương bái lạy, đêm ấy trời đã đổ mưa. Quân Tống đến cướp nước, tướng Cao Quỳ định áp sát lấy trộm mang về. Khi đến cánh đồng Vũ Bình đã bị quân ta truy đuổi đánh cho tan tác, mọi người trong nước đều nghĩ Phật đã bị mất. Mùa đông năm ấy thả lửa đốt đồng, chỉ có đức Phật ở đó vẫn xanh tươi. Vua nghe thấy thế liền lệnh cho đón về chùa. Thời vua Lý Anh Tông gặp đại hạn, liền đón về chùa Báo Thiên, nhà vua và Thái hậu đích thân hành lễ cầu mưa, khi xa giá trở về trời đã đổ mưa lớn. Đến thời vua Lê chúa Trịnh, hàng năm sai quan triều đình đến cúng tế để giữ mạch đất nước lâu dài. Năm Canh Thân lại đại giá thân chinh đặc mệnh cho Thuyên nghĩa hầu Lê Kim Hội đến lấy trống làm hiệu, khi đại định lại gia ban áo gấm mũ trụ. Tiếp nối về sau, phàm việc cầu tạnh, cầu mưa, trước tiên đến đón Tứ Pháp về bái yết chùa Phúc Nghiêm và chùa Diên Ứng cầu đảo ba ngày. Sau mới đón Tam tổ hội cùng tế cáo, đặt làm lệ mãi như vậy. Nước Việt ta có Phật khởi phát ở nơi này”.
Các sự tích dân gian tuy không được coi là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu chính thống, nhưng ở đây, trong việc tìm hiểu tín ngưỡng thờ Tứ Pháp thì truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương lại là nguồn tham khảo khá quan trọng ngoài việc nghiên cứu các ngôi chùa vùng Dâu và hiện vật thờ tự trong các ngôi chùa Tứ Pháp.
1.2 Tục thờ Tứ Pháp - sự dung hòa giữa tín ngưỡng bản địa và Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ.
Có thể nói, tín ngưỡng bản địa của người Việt thờ các vị thần thiên nhiên giúp cho mùa màng tốt tươi, muôn vật sinh sôi nảy nở (tín ngưỡng Tứ Pháp chẳng hạn) có trước khi Phật giáo Ấn Độ truyền vào nước ta là tín ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng này tôn thờ các biểu tượng thần thánh và hiện tượng thiên nhiên có thể giúp con người có cuộc sống no đủ, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Nó được thể hiện dưới các hình thức mang tính phô diễn dưới dạng âm - dương, đực - cái.
Các tên địa danh như: Dâu (dạy dân làng trồng dâu, nuôi tằm), Đậu (dạy dân làng trồng Đậu), Tướng (gọi lái từ Tương – dạy dân làng trồng đỗ tương), Dàn (rút gọn từ Dàn Câu) – dạy dân làng làm dàn lưỡi câu bắt cá đều là tên làng người ta đặt ra để ghi nhớ công ơn những phúc thần mỗi làng (được thờ làm Thành Hoàng bản thổ). Vậy nên tên nôm của làng được gọi theo tên những loại cây trồng nhà nông nói trên và công cụ kiếm sống của người dân. Còn chùa là chùa của làng nên ngoài tên chữ Hán ra, chùa thường được người ta gọi theo tên làng rút gọn (chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn).
Chùa Tổ và hệ thống chùa Tứ Pháp vùng Dâu huyện Thuận Thành là kết quả dung hòa giữa Phật giáo Ấn Độ với tín ngưỡng bản địa của người Việt khi du nhập vào nước ta để tạo nên một Trung tâm tín ngưỡng mang đậm sắc thái dân tộc. Từ trung tâm này, Phật giáo đã phát triển qua các thời Hán, Tùy - Đường đô hộ với sự góp công của các nhà truyền giáo như Khương Tăng Hội (gốc Trung Quốc), Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (gốc Ấn Độ) – sơ tổ của Thiền tông Việt Nam.... và lan tỏa khắp miền Bắc. Vì vậy, chùa Tổ (Phúc Nghiêm tự) và hệ thống Tứ Pháp đã trở thành dấu tích quan trọng của quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam. Và thành Luy Lâu – lị sở của chính quyền đô hộ Trung Hoa ở vùng Dâu được coi là cái nôi của Phật giáo miền Bắc.
Câu hỏi đặt ra là tại sao các chùa thuộc hệ thống Tứ Pháp lại mang tên các Bà với tên gọi: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn, Bà Đanh ở Bắc Ninh, Bà Đanh ở Hà Nam, Bà Đanh ở Trà Phương - Kiến Thụy - Hải Phòng...?.Điều này xuất phát từ quan niệm dân gian người Việt trong tín ngưỡng phồn thực.
Người Việt xưa quan niệm những gì làm sinh sôi, nảy nở muôn vật và sinh ra vũ trụ đều được gọi là bà, là mẹ của muôn loài và tự nhiên.
Vậy nên, những bản thể của vũ trụ là các hành tinh quay cùng trái đất quanh mặt trời như sao Kim, sao Mộc, sao Thủy, sao Hỏa, sao Thổ (ngũ hành) đều được họ gọi là Bà (Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa, Bà Thổ). Thậm chí mặt trời, mặt trăng cũng được các dân tộc thiểu số Việt Nam tôn là nữ thần. Việc người ta rước các tượng thần Tứ pháp vào chùa làng để thờ thể hiện sự hòa hợp giữa tín ngưỡng thờ thần bản địa với Phật giáo Ấn Độ.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, các ngôi chùa thờ Tứ Pháp được xây dựng trong những khoảng thời gian khác nhau. Nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Cường nhận xét như sau:
“Căn cứ vào tài liệu niên đại ở các chùa Tứ Pháp cho thấy hệ thống các chùa Tứ Pháp được chia thành hai hệ thống có niên đại sớm muộn khác nhau: nhóm chùa Tứ Pháp ở Bắc Ninh có niên đại cuối thế kỷ (TK) II đến TK III sau CN, rồi liên tục phát triển ở thế kỷ sau; nhóm Tứ Pháp ngoài Bắc Ninh, thường có niên đại khoảng từ TK X trở về sau. Một số di tích thờ Tứ Pháp chưa xác định được niên đại rõ ràng, còn lưu giữ nhiều đồ thờ tự cổ xưa nhưng có di tích bị đốt phá, không còn (hoặc nay chỉ còn dấu tích) hoặc được xây mới gần đây, trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo nên không rõ di tích” 1.
Các di tích thờ Tứ Pháp hiện nay chủ yếu tập trung trong các tỉnh, thành phố xung quanh tỉnh Bắc Ninh. Trong tổng số 58 di tích trên miền Bắc thuộc hệ thống Tứ Pháp được thống kê có thể nhận thấy, hầu hết Tứ Pháp đều được thờ ở trong chùa (chỉ một trường hợp cá biệt là thôn Tần Tranh ở Hưng Yên đặt tượng Pháp Vũ trong hậu cung đình làng, phối thờ cùng các vị Thành Hoàng). Cụ thể là: Bắc Ninh (5 di tích), Hà Nội (10 di tích), Hưng Yên (31 di tích), Hà Nam (11 di tích), Bắc Giang (1 di tích).
Theo nhiều nhà nghiên cứu, đền thờ thần tự nhiên có trước, khi đạo Phật du nhập vào, những đền thờ này được cải thành chùa thờ Tứ Pháp. Điều đó có nghĩa: “Không phải người ta đặt tượng Tứ Pháp vào các chùa thờ Phật mà người ta đặt bàn thờ Phật vào các đền Tứ Pháp, từ đền thờ các thần nông nghiệp đã có từ trước. Và đến lượt các nữ thần này được Phật hóa, trở thành Phật Bà”2 .
____________________________________________________________
1 Nguyễn Thị Thanh Mai (2021), “Các di tích thờ Tứ pháp của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”.<http://vanhoanghethuat.vn/cac-di-tich-tho-tu-phap-cua-nguoi-viet-vung-dong-bang-bac-bo.htm>.[Ngày đăng: 14 tháng 7 năm 2021].
2 Hà Văn Tấn (1993), Chùa Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, trang 40.
Nhiều người cho Tứ Pháp là các thần dân gian, nhưng nếu xem xét kỹ 4 pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện ta lại thấy:
Tượng Tứ Pháp chùa Dâu lại hiển thị vẻ Phật giáo bởi mái tóc xoăn kiểu bụt ốc, giữa trán có nốt ruồi son thường thấy trong các bức tranh và tượng Phật Ấn Độ và mang dáng vẻ đàn ông khi không có bầu ngực, ngang eo thắt xà rông, phần trên người để trần, tai chảy sệ (đặc trưng của tượng Phật). Ngoài ra, khuôn mặt các tượng Tứ Pháp toát lên vẻ hiền dịu của người phụ nữ Việt Nam với cổ cao ba ngấn, khuôn mặt thanh tú. Trong lòng hai bàn tay tượng đều có viên ngọc tượng trưng cho sự kết tinh cái đẹp của ánh sáng. Tay phải các tượng trong tư thế giơ ngang ngực (duy nhất tượng Pháp Điện hạ ngang bụng), lòng bàn tay mở trong thế giảng pháp, 5 ngón hướng lên; Tay trái hạ thấp gần đùi, lòng bàn tay ngửa lên trên. Kiểu tay tạo tác thể hiện việc phổ độ chúng sinh. Đặc biệt các pho tượng đều sơn màu nâu đỏ, là sự pha trộn của màu đỏ (màu của máu) và màu đen (màu của mây).
Mặt khác, hầu hết các tượng Tứ Pháp không chỉ ngự trên đài sen như các tượng Phật thông thường mà còn được đặt trên ngai hoặc trong khám thờ (ngai và khán thờ là vị trí đặt tượng thần của người Việt). Nhà nghiên cứu Võ Hoàng Lan cũng nhận xét: “Hầu hết các tượng Tứ Pháp không chỉ ngự trên tòa sen như các tượng Phật thông thường mà còn được ngồi trên ngai, đặt trong khám. Hiện tượng này như càng nhấn mạnh đến nguồn gốc thần của các ngài hay là biểu hiện cho sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian một cách rõ nét”3.
Những điểm đặc trưng của tượng phật Ấn Độ và tượng thần Việt Nam được thể hiện trong các pho tượng Tứ Pháp nói trên là cơ sở để cho rằng tín ngưỡng Tứ Pháp dân gian bản địa đã hòa hợp với văn hóa Phật giáo Ấn Độ để cùng tồn tại trong môi trường văn hóa Việt Nam.
1.3 Dấu ấn Mật tông Ấn Độ trong tín ngưỡng Tứ Pháp:
Trong tục thờ Tứ Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ ta sẽ thấy dấu ấn của Phật giáo dòng Mật tông Ấn Độ khi phân tích phong cách tạo tác tượng Tứ Pháp.
Quan niệm Hindu giáo cho rằng, sự kết hợp âm dương sẽ sinh ra kết quả viên mãn, đó là sự kết hợp Từ bi và Trí tuệ khi mà Mật tông nói riêng, Phật giáo nói chung thường dùng biểu tượng: Nam giới cho từ bi, phương tiện và nữ giới cho trí tuệ.
Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ cũng chịu ảnh hưởng của Hindu giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng Bà La Môn mà ở đó vị thần tối cao được người Ấn Độ tôn thờ là thần Shiva (Siva) tối cao trong bộ ba Tam thần. Thần Shiva mang dáng vẻ lưỡng tính (nửa nam – nửa nữ, tượng trưng cho Âm – Dương). Đó là vị thần hủy diệt và sáng tạo (chết và sống) - hai mâu thuẫn trong một biểu tượng. Siva là vị thần biểu tượng của hai nguyên lí Âm – Dương, là vị thần tổng hợp của 2 vị thần là Shiva (thần Hủy diệt) và Vishnu (đấng Bảo tồn) trong triết học Bà La Môn.
Phật giáo nguyên thủy du nhập vào vùng Dâu của Kinh Bắc trong thế kỷ thứ nhất, thứ hai sau CN, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng Hindu với quan niệm triết học Ấn Độ nên chắc chắn đã lồng ghép tư tưởng lưỡng tính (Nam-Nữ = Dương-Âm) vào
____________________________________________________________________
3 Võ Hoàng Lan (2012), “Về tục thờ Tứ Pháp của người Việt”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 2 - 2012, tr. 37
tín ngưỡng bản địa của người Việt để dung hòa hai yếu tố văn hóa Ấn-Việt, tạo nên tượng Tứ Pháp vừa mang tính Phật giáo Ấn Độ vừa mang tính thần giáo Việt Nam là các vị Bồ Tát - Nhiên thần: Mây, Mưa, Sấm, Sét. Đây cũng tương tự bốn vị thần Tứ Đại Thiên Vương nhà trời (Tứ Đế) trong quan niệm người Việt, là các vị thần Phong, Điều, Vũ, Thuận. Các vị này còn được dân gian gọi là Tứ Đại Kim Cương – các vị thần ngoài việc giữ gìn Phật pháp còn có trách nhiệm trông nom bốn phương cho mưa thuận, gió hòa.
Các pho tượng Tứ Pháp được thờ trong các ngôi chùa Miền Bắc như đã nói ở trên mang cả dáng vẻ tượng Phật nam Ấn Độ và vẻ phụ nữ Việt Nam. Do đó thực chất tục thờ Tứ Pháp là thờ các vị thần Hindu giáo đã được Việt hóa khi Phật giáo du nhập vào miền Bắc từ từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Khi đó, dưới sự cai quản của Sĩ Nhiếp ở miền Bắc và ở miền Trung là phụ thân của Sĩ Nhiếp (Sĩ Tứ) đang làm Thái thú cùng trong một châu - Giao Châu (Giao Châu thời này bao gồm cả các quận Nhật Nam, Cửu Chân). Trong đó Nhật Nam chính là nơi cha của Sĩ Nhiếp cai quản. Do đó, hoàn toàn hợp lý khi tín ngưỡng của miền Bắc và miền Trung nước ta lúc này cùng là một - thờ Tứ Đế bản địa và Chư Thiên của đạo Bà La Môn (Hindu giáo).
Nhiều người sẽ thấy sự mâu thuẫn trong việc thần lại trở thành Phật trong truyền thuyết vùng Dâu, nhưng nếu đi sâu tìm hiểu các tích Phật của Ấn Độ mang màu sắc thần bí, ly kỳ thì sẽ thấy ở đây không có gì là khó hiểu bởi nó thể hiện triết lý của dòng Phật giáo Mật tông.
Những câu chuyện lạ lùng như sự tích Man Nương không phải là không có trong điển tích Phật giáo Ấn Độ, đặc biệt có nhiều trong dòng Mật Tông như truyện các vị sư Đại Thủ Ấn trong tập truyện 84 đại thành tựu Giả Ấn Độ mà truyện Đại sư thứ tư: “Dobipa – người cưỡi cọp Viên đá của nhà triết học” là tiêu biểu.
2. Phải chăng Phật giáo nguyên thủy du nhập vào miền Bắc nước ta là dòng Mật tông Ấn Độ?
Kết nối tục thờ Tứ Pháp mang dấu ấn Phật giáo cổ Ấn Độ với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung ta có thể nhận thấy dấu ấn dòng Mật Tông của Phật giáo – một dòng Phật giáo kết hợp của tư tưởng Phật giáo Đại thừa nguyên thủy và tín ngưỡng Bà La Môn. Ta sẽ xem xét giả thuyết này:
2.1 Truyền thuyết Tiên Dung- Chử Đồng Tử trong văn học dân gian Việt Nam.
Nói đến chữ “Quang” trong Phật giáo (kể cả tảng đá Thạch Quang Vương Phật trong truyền thuyết Man Nương chùa Dâu) tôi lại liên tưởng đến truyền thuyết về vị thánh Chử Đồng Tử trong truyện Nhất Dạ Trạch (Đầm một đêm) được ghi trong sách Lĩnh Nam Trích Quái ra đời ở thế kỷ XV. Trong truyền thuyết này cũng có một nhà sư tên Phật Quang (hay Ngưỡng Quang).
Truyện kể rằng, trên đường theo thương nhân nước ngoài ra biển buôn bán, Chử Đồng Tử đã gặp vị sư tên Phu Quang, hay Ngưỡng Quang tùy theo truyện dân gian gọi tên (ở đây tên vị đại sư cũng có chữ “Quang”) đang tu ở am trên núi Quỳnh Vi. Nay địa danh này được xác định là ở Cửa Sót (thuộc địa bàn xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Nơi này các lái buôn xưa hay vào xin nước ngọt trên đường buôn bán bằng đường biển. Tại đây Chử Đồng Tử lên núi dạo chơi và nhân duyên đã đưa ông đến với Phật giáo, được nhà sư tu ở đây khuyên học đạo. Thế là Chử Đồng Tử bỏ buôn bán, ở lại học đạo, bảo lái buôn đi cùng khi nào về qua thì đón mình. Truyện còn kể rằng: “Sau bọn lái buôn quay lại am chở Đồng Tử trở về. Sư bèn tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”. Đó là 2 vật thần thông mà sau này Chử Đồng Tử thường dùng để hộ thân và cứu giúp người khác. Đây có lẽ là chứng cứ cho rằng Chử Đồng Tử cũng là một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo nguyên thủy từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam ở thời Hùng Nghị Vương thứ hai, thứ ba gì đó.
Truyền thuyết “Nhất dạ trạch” còn kể rằng, sau khi ở núi Quỳnh Vi về, Chử Đồng Tử thuyết phục Tiên Dung công chúa theo mình học đạo. Tiên Dung thuận theo, liền “bỏ phố phường, chợ búa cơ nghiệp, rồi cả hai đều tìm thầy học đạo. Có lần, trên đường đi xa, trời tối chưa về kịp nhà, tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng che nón mà trú thân. Đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, gia nhân, tướng sĩ, thị vệ hầu hạ, canh gác. Sáng hôm sau, dân chúng trông thấy kinh ngạc bèn đem hương hoa, lễ vật tới dâng xin làm bề tôi”. Vua Hùng cho rằng vợ chồng Tiên Dung-Chử Đồng Tử muốn lập nước riêng, bèn nổi giận cho quân, tướng đến đánh. Quân nhà vua lập trại bên kia sông đợi trời sáng tấn công. Không ngờ trong đêm ấy, thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung vì không muốn chống lại vua cha, đã dùng phép cho thành quách và người ngựa, gia nhân tất cả bay lên trời. Chỗ nền thành quách, lầu các sụt xuống biến thành cái đầm mà sau này người ta gọi là đầm Dạ Trạch (một đêm). Như vậy, 2 vật pháp khí là cây gậy và cái nón thần (mô típ quen thuộc của Phật giáo Mật tông) đã xuất hiện trong sự tích Chử Đồng Tử - Tiên Dung.
Ở vùng Đồ Sơn, Kiến Thụy Hải Phòng còn có truyền thuyết về việc Chử Đồng Tử trên đường ra biển buôn bán có ghé vào hang Cốc Tự (chùa Hang-Đồ Sơn) gặp sư Bần (người Ấn Độ) đang truyền đạo ở đó, được ngài cảm hóa đã bỏ nghề đi buôn để tu Phật. Truyền thuyết còn kể, trên đường về Hưng Yên qua lối sông Đa Độ chảy qua địa phận trang Cốc Liễn (thôn Cốc Liễn, xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy nay), Chử Đồng Tử dã dùng cây gậy thần cứu sống con trai bà Đa bị chết đuối nên được dân làng cảm tạ, trả ơn nhưng ông nhất quyết không nhận. Dân chúng hỏi danh tính, ông cho biết tên là Đông An, người xứ Tứ Xuyên rồi ra đi. Sau đó mẹ con bà Đa lập miếu thờ tri ân công đức thánh. Sau này, dân làng cho người dò tìm thì được biết ở vùng Đông An, đất Tứ Xuyên (xã Vĩnh Hóa, tổng Phúc Dương, Hưng Yên) có một thần nhân tên là Chử Đồng Tử, có phép thuật, thường đi khắp nơi cứu nhân, độ thế. Dân làng bèn dựng đình thờ ông làm Thành hoàng với duệ hiệu là thần Đông An với sự tích linh thiêng còn được ghi lại trong thần tích ở đình. Nhờ công âm phù cho vua Lê Thần Tông (niên hiệu Vĩnh Tộ) thắng lợi khi tiễu trừ giặc loạn mà vua đã xuống chiếu ban sắc phong kèm theo mỹ tự “Kinh thiên vĩ địa Đại vương” cho thần Đông An, ban tiền dựng miếu, giao cho trang Minh Liễn phụng thờ. Sau này nhân dân cầu cúng tại đây rất linh ứng, vào những năm đại hạn kỳ vũ đều được mưa rào, cả tổng ngày trước đều tôn vinh thần Đông An là “Đức Thánh Cả thượng đẳng tối linh”. Ngày nay, hàng năm người dân nơi đây thường mở hội tế lễ Thành Hoàng làng vào vào ngày 14-15 tháng 3 (âm lịch), là ngày thánh đản của thần Đông An.
Người viết bài này trong 2 lần đi điền dã đến đây và dự Lễ hội có tìm hiểu về thần tích thánh Đông An và mục sở thị 2 vật được thờ tượng trưng tại đình Cốc Liễn. Đó là là thanh gươm và chiếc gậy phép (do đình thờ Chử Đồng Tử và phối thờ cả Đông Hải Đại vương). Ở đây chiếc gậy phép là của thánh Chử và thanh gươm là của Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng.
2.2 Dấu ấn Mật Tông Phật giáo trong truyền thuyết Chử Đồng Tử -Tiên Dung và sự tích Phật Mẫu Man Nương.
Truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung và truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương đều nhuốm màu thần thoại - đặc trưng của những tích truyện Phật giáo Mật tông kỳ bí của Ấn Độ. Trong cả hai truyền thuyết đều có sự hiện diện của các vật thần thông, đó là cây gậy mà sư Khâu Đà La cho Man Nương khi cắm xuống đất có thể gọi được mưa và cây gậy tu sĩ Ngưỡng Quang cho Chử Đồng Tử có thể cải tử hoàn sinh hoặc đưa mọi thứ bay lên trời cùng cái nón và biến ra cung điện, thành quách, kẻ hầu người hạ. Còn một pháp khí nữa mà sư Khâu Đà La dùng – cây tích trượng. Khi Man Nương mang con trả Sư thì Khâu Đà La đã gõ tích trượng vào thân cây Du Thụ mà đọc chú rồi đặt đứa bé vào hốc cây. Hốc cây liền khép kín đứa bé vào trong một cách thần kỳ.
Một mô tip giống nhau nữa giữa hai truyền thuyết nói trên là hôn nhân đặc biệt của một công chúa cao sang (Tiên Dung) với kẻ nghèo hèn là Chử Đồng Tử trên bãi sông và việc có thai kiểu thiên - nhân hợp nhất giữa thiền sư Ấn Độ và cô gái vùng Dâu. Ngoài ra, trong cả hai truyện đều có việc truyền đạo của các tu sĩ Ấn Độ cho Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Man Nương. Điểm duy nhất khác biệt ở đây là thời gian: Chử Đồng Tử và Tiên Dung học Phật trước Man Nương (truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung xảy ra vào khoảng thế kỷ 2-3 trước CN, còn truyền thuyết Man Nương xảy ra vào cuối thế kỷ 2, đầu thế kỷ 3 sau CN).
Căn cứ vào truyền thuyết dân gian có thể tạm cho rằng những Phật tử đầu tiên của Việt Nam chính là vợ chồng Tiên Dung - Chử Đồng Tử và bố con ông Tu Định - Man Nương.
3. Kết luận.
Khi du nhập vào nước ta, trải qua hàng nghìn năm biến đổi, Phật giáo Ấn Độ đã dung hợp với tín ngưỡng bản địa đa thần của người Việt để tồn tại, bám rễ, phát triển. Trong quá trình tiếp thu văn hóa Phật giáo Ấn Độ - Trung Quốc, văn hóa Việt Nam đã biến đổi nhiều yếu tố ngoại lai cho phù hợp với thế giới quan tư tưởng và văn hóa người Việt để tạo thành một nền văn hóa Phật giáo hài hòa các luồng tư tưởng, không xung khắc và độc đáo. Đó là điều mà tôi muốn trình bày trong bài viết này.
Ngoài ra, qua bài viết tôi cũng muốn chứng minh rằng dòng Phật giáo truyền vào nước ta đầu tiên chính là dòng Mật Tông Ấn Độ. Điều này có thể đúng hoặc không đúng, mong được chia sẻ quan điểm cá nhân của tôi với quý độc giả cùng các nhà nghiên cứu và chờ sự đánh giá của tất cả mọi người.
Tài liệu tham khảo:
1. Viện Hán Nôm (2019), Cổ Châu Pháp Vân phật bản hạnh ngữ lục (Khắc năm Lê Cảnh Hưng 13 – 1752, bản sao lưu do Viên Hùng dịch), Hà Nội.
2. Văn bia “Phúc Nghiêm tự sự tích bi” ở Phúc Nghiêm tự (chùa Tổ), làng Mãn Xá (xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh).
3. Trần Thế Pháp (2020), Lĩnh Nam chích quái, Nxb. Kim Đồng, Hà Nội, 260 trang.
4. “Chương 5: Truyện Nhất Dạ Trạch; Chương 15: Truyện Man Nương”.<http:
//sachtruyen.net/xem-sach/linh-nam-chich-quai.6fb1d>.[Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2023].
5. Thần tích đình làng Cốc Liễn (Tư liệu điền dã) tại xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng).
6. Nguyễn Mạnh Cường (2003), Chùa Dâu - Tứ Pháp và hệ thống các chùa Tứ Pháp, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Hoàng Mạnh Thắng (2007), “Thờ Tứ Pháp ở Hưng Yên”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9 – 2007, tr. 35 - 40.
Phạm Văn Thi - hội viên Hội VNDG Hải Phòng.