Vấn đề về bài thuốc - phương thuốc chữa và phòng bệnh trong y học cổ truyền
- Thứ sáu - 01/03/2024 20:46
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Cũng như Y học hiện đại (YHHĐ) hoặc cũng như các liệu pháp châm, cứu, xoa bóp - bấm huyệt, … của Y học cổ truyền (YHCT), liệu pháp dùng thuốc của YHCT đều luôn phải dựa vào thực tế khám bệnh để có được “hội chứng bệnh” chính xác, từ đó mới phân tích, lập luận để có được các bước chẩn đoán chính xác và cần thiết như: Bệnh danh, bát cương, kinh lạc hoặc/và tạng phủ, âm dương khí huyết, và nguyên nhân gây bệnh. Và cuối cùng, người thầy thuốc chỉ định, ra đơn theo “cổ phương”, “tân phương”, “cổ phương hoặc tân phương gia giảm, hoặc lại theo “đối pháp lập phương – nhân phương”.
1. Một số nguyên tắc, nguyên lý cơ bản
Chúng ta có thể có một số kết luận như sau:
1.1.Cũng như Y học hiện đại (YHHĐ) hoặc cũng như các liệu pháp châm, cứu, xoa bóp - bấm huyệt, … của Y học cổ truyền (YHCT), liệu pháp dùng thuốc của YHCT đều luôn phải dựa vào thực tế khám bệnh để có được “hội chứng bệnh” chính xác, từ đó mới phân tích, lập luận để có được các bước chẩn đoán chính xác và cần thiết như: Bệnh danh, bát cương, kinh lạc hoặc/và tạng phủ, âm dương khí huyết, và nguyên nhân gây bệnh. Và cuối cùng, người thầy thuốc chỉ định, ra đơn theo “cổ phương”, “tân phương”, “cổ phương hoặc tân phương gia giảm, hoặc lại theo “đối pháp lập phương – nhân phương”. Tuân theo các nguyên lý như vậy, nên trên thực tế lâm sang, việc người thầy thuốc đã đang và sẽ luôn phải thực hiện trong công tác điều trị đúng đắn, đó là “đồng bệnh dị trị và dị bệnh đồng trị” cũng là một tất yếu khách quan. Và thực tế ấy đã giúp càng khẳng định: Cũng như YHHĐ, cũng như các chuyên ngành khác, YHCT cũng là một chuyên ngành khó
1.2.Nói cách khác và cụ thể hơn, cũng như các liệu pháp khác, trong liệu pháp dùng thuốc của YHCT, người thầy thuốc luôn phải dựa vào cả một hội chứng của bệnh để phân tích chính xác như: Bệnh – người bệnh đó hoặc thuộc biểu hoặc/và thuộc lý, hoặc bệnh trên 01, 02 hoặc nhiều kinh lạc hoặc/và trên 01, 02 hoặc nhiều tạng phủ: Bệnh đó hoặc thực hoặc/và hư; Bệnh đó hoặc nhiệt hoặc thiên nhiệt hoặc/và hàn hoặc thiên hàn; Bệnh đó hoặc ở phần âm hoặc/và dương hoặc/và khí hoặc/và phần huyết; Bệnh đó do 01, 02 hoặc nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, để từ đó mới có phương pháp cùng phương thuốc điều trị thích hợp. Do “đồng bệnh dị trị”, mà bệnh thì rất nhiều, nên các nhà chuyên môn đã tổng kết và tính toán là: Hiện nay YHCT có khoảng trên 100.000 phương thuốc cổ kim có tên gọi khác nhau. Và cũng do “dị bệnh đồng trị”, do thực tế trên lâm sàng,…, các thầy thuốc YHCT cũng chỉ cần có được quãng trên dưới 500 phương thuốc, thì khi đó, họ cũng khá tự tin trong hầu hết các khoa lâm sàng để chữa bệnh.
1.3.Như vậy, cũng như YHHĐ, do thực tế của bệnh tật, do mỗi thể bệnh, do mỗi nhóm người bệnh sẽ là khác nhau, nên sẽ luôn phải có các phương thuốc phù hợp khác nhau. “Dụng dược như dụng binh”, bởi như vậy, nên việc chúng ta mong muốn có được một phương thuốc chung nào đó cho chỉ một bệnh cũng là thật sự không thể, ngay cả khi đó là phương thuốc “kinh nghiệm gia truyền”
1.4.Với công tác phòng bệnh, YHCT cũng khẳng định “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Chúng ta phải luôn đảm bảo cân bằng, phòng bệnh tốt giữa lao động, tập luyện, ăn uống, nghỉ ngơi trong cả lúc không và lúc đã bị bệnh. Và như vậy, mỗi thể tạng, mỗi thể bệnh, công tác phòng bệnh cũng sẽ phải cần có những điểm khác nhau nào đó.
1.5.Sức khoẻ cũng là một tài sản quý giá nhất trong đời sống, cuộc sống của con người, của mỗi người. Tất cả các vấn đề, từ sức khỏe khoẻ mạnh đến phòng và chữa bệnh của YHCT, với một hệ thống lý luận cùng thực tiễn logic biện chứng trong vài nghìn năm qua, suy cho cùng, đều liên quan và tương đồng rất lớn đến mối liên quan giữa cấu trúc – chuyển hoá – chức năng, đến đồng hóa và dị hóa, đến quá trình chuyển hóa và vật chất chuyển hóa trong sinh bệnh lý, trong điều trị và phòng bệnh của YHHĐ. Nghề Y cũng là một nghề khó và cũng rất cần sự cẩn trọng vì nó có liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bảo vệ, hồi phục và nâng cao sức khoẻ của con người, của mỗi người trong mọi lúc. Nên, công tác điều trị cũng như phòng bệnh cần đảm bảo phải “cầu kỳ bản”, phải “biện chứng luận trị” và cũng phải cần có “con mắt – kinh nghiệm lâm sàng” càng nhiều càng đúng thì càng tốt. Cũng chính vì như vậy, các vấn đề đào tạo, đào tạo nâng cao và tự đào tạo để không ngừng kết hợp và phát triển cùng với YHHĐ, cũng vẫn sẽ là thường xuyên, liên tục, chất lượng đối với ngành YHCT.
2. Kết luậnChúng ta có thể có một số kết luận như sau:
2.1.Dù là có nguồn gốc tự nhiên nên đã được đánh giá là có an toàn, nhưng các và mỗi vị thuốc của YHCT đều có tính vị (nóng,ấm, hàn lương, mặn, ngọt,…) khác nhau, đều có tác dụng hoặc bổ hoặc/và tả khác nhau, đều có quy kinh (cơ quan đích) khác nhau, và cũng có những vị thuốc có độc tính, nên khi dùng thuốc, chúng ta cần tìm hiểu kỹ lưỡng hoặc cần có các tư vấn của các thầy thuốc.
2.2.Ngay cả trong thực phẩm, các gia vị chế biến thức ăn, đều thường có các tính năng dược vật nhất định nào đó, nên chúng ta cũng rất cần quan tâm tự chiêm nghiệm, tự đánh giá cá nhân, bản tạng, cơ địa của mình thuộc thể tạng nào để sử dụng thực phẩm, gia vị cho phù hợp, để đó sẽ không là một căn nguyên gây ra bệnh tật.
2.3.Nhân dịp đầu xuân Giáp Thìn, vấn đề sức khoẻ của mỗi người chúng ta cũng đều có những cơ hội và thách thức nhất định. Chúng tôi xin góp vài lời, vài ý theo chuyên môn, chuyên ngành YHCT như vậy. Rất trân trọng!!
ThS.GVC. Nguyễn Minh Thuỵ và CS
Khoa YHCT - Trường Đại học Y Dược Hải Phòng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế. Vụ Khoa học và Đào tạo (2012). Hoá sinh. Nxb Y học. Tr17-348.
2. 16. Đỗ Tất Lợi (1995). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nxb Khoa học & Kỹ thuật. Tr11- 1339.
3. Nguyễn Minh Thuỵ & CS (2022). Cơ sở lý luận cơ bản để kết hợp YHCT với YHHĐ. Sách chuyên khảo. Nxb Y học
4. Trường ĐHY Hà Nôi. Bộ môn Sinh lý học (2011). Sinh lý học. Nxb Y học. Tr 5-205
5. Trường ĐHY Hà Nội. Bộ môn Sinh lý bệnh học (2008). Sinh lý bệnh học. Nxb Y học. Tr 43-58, 145-155.
6. Trường ĐHY Hà Nội. Bộ môn YHCTDT (1999). Y học cổ truyền. Nxb Y học. Tr3-1173.
7. Trường ĐHY Hà Nội. Bộ môn Y sinh học - Di truyền (2008). Sinh học. Nxb Y học Tr5-298.
8. WHO tổ chức hội nghi cấp cao toàn cầu đầu tiên về Y học cổ truyền. 2023. https://www.vietnamplus.vn
9. Thuy NgM, et al (2023). The dialectical and scientific bases for developing the Eastern medicine more fastly and rightly. Scientific Research Publishing, Inc., USA. http://www.scirp.org
Khoa YHCT - Trường Đại học Y Dược Hải Phòng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế. Vụ Khoa học và Đào tạo (2012). Hoá sinh. Nxb Y học. Tr17-348.
2. 16. Đỗ Tất Lợi (1995). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nxb Khoa học & Kỹ thuật. Tr11- 1339.
3. Nguyễn Minh Thuỵ & CS (2022). Cơ sở lý luận cơ bản để kết hợp YHCT với YHHĐ. Sách chuyên khảo. Nxb Y học
4. Trường ĐHY Hà Nôi. Bộ môn Sinh lý học (2011). Sinh lý học. Nxb Y học. Tr 5-205
5. Trường ĐHY Hà Nội. Bộ môn Sinh lý bệnh học (2008). Sinh lý bệnh học. Nxb Y học. Tr 43-58, 145-155.
6. Trường ĐHY Hà Nội. Bộ môn YHCTDT (1999). Y học cổ truyền. Nxb Y học. Tr3-1173.
7. Trường ĐHY Hà Nội. Bộ môn Y sinh học - Di truyền (2008). Sinh học. Nxb Y học Tr5-298.
8. WHO tổ chức hội nghi cấp cao toàn cầu đầu tiên về Y học cổ truyền. 2023. https://www.vietnamplus.vn
9. Thuy NgM, et al (2023). The dialectical and scientific bases for developing the Eastern medicine more fastly and rightly. Scientific Research Publishing, Inc., USA. http://www.scirp.org