CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ TẦM NHÌN HƯỚNG BIỂN CỦA VƯƠNG TRIỀU MẠC
- Chủ nhật - 28/01/2024 23:12
- In ra
- Đóng cửa sổ này
CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ TẦM NHÌN HƯỚNG BIỂN
CỦA VƯƠNG TRIỀU MẠC
TS. Phạm Hữu Thư
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hải Phòng
THỜI THẾ TẠO ANH HÙNG, NHÂN KIỆT
Những năm đầu thế kỷ thứ XVI (1510-1527), nội bộ triều đình nhà Lê chia rẽ, xâu xé phe phái nội bộ, xuất hiện các vị “vua Quỷ”, “vua Lợn”, tạo ra một cuộc khủng hoảng cung đình trầm trọng. Đất nước rơi vào cảnh kinh tế đình đốn, xã hội loạn lạc liên miên, khiến lòng dân ly tán, căm ghét vương triều. Ở nông thôn, tình trạng quan lại cướp đoạt ruộng đất của nông dân ngày càng phổ biến, thêm vào đó là nạn cường hào ngày càng trắng trợn, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống của người nông dân; sản xuất nông nghiệp giảm sút. Để có kinh phí cho các cuộc hỗn chiến giữa các phe nhóm phong kiến liên tục xảy ra, triều đình nhà Lê đã phải tăng thuế khóa, phu dịch, khiến cho sức sản xuất của nông nghiệp thêm sa sút, tiêu điều. Thêm vào đó, nạn hạn hán, vỡ đê đã để lại hậu quả nặng nề, nhân dân chết đói nằm gối lên nhau. Phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục và rộng khắp, đã đẩy xã hội vào tình trạng hỗn loạn, vương triều nhà Lê sơ bị suy sụp, tiêu vong. Đây cũng chính là cơ hội, tiền đề chính trị, xã hội thuận lợi để xuất hiện hai bậc anh hùng, nhân kiệt đã làm thay đổi lịch sử, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ nhà Mạc trị vì đất nước, mang lại sự ổn định và no ấm cho nhân dân. Hai con người đó là Mạc Đăng Dung và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Mạc Đăng Dung (1483 - 1541) sinh ra dưới thời vua Lê Thánh Tông, thời kỳ đất nước thanh bình, thịnh trị. Thân phụ là Mạc Hịch, thân mẫu là Đặng Thị Hiền, quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, Hải Dương (nay là xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, làm nghề đánh cá, Mạc Đăng Dung có sức khỏe phi thường và tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Năm 17 tuổi, Đăng Dung đi thi Võ trạng nguyên trong cuộc thi tuyển võ sĩ tại Giảng Võ đường ở Thăng Long dưới triều Lê Uy Mục và trúng đô lực sĩ, được sung vào đội túc vệ chuyên cầm dù theo vua. Từ đó, Mạc Đăng Dung đã thăng tiến rất nhanh trên con đường hoạn lộ. Năm 1511, được phong tước Vũ Xuyên bá. Ba năm sau, năm 1516, được cử làm Trấn thủ Sơn Nam với chức Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua 3 đời vua Lê là Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung được thăng tới tước An Hưng vương, nắm tiết chế các dinh thủy lục 13 đạo, uy thế bao trùm, thu phục nhân tâm. Như vậy, sau 27 năm kể từ khi là người lính cận vệ cho vua, chính nhân dân và lịch sử đã lựa chọn Mạc Đăng Dung để phế truất nhà Lê (vua Lê Cung Hoàng), lập ra triều đại Mạc vào năm 1527, chấm dứt cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mang dấu ấn thời đại.
Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), sinh ra trong một gia đình đặc biệt, ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Thân phụ của ông là Văn Định, học giỏi nhưng không thi đỗ, từng giữ một chức quan nhỏ. Thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái của Thượng thư Tiến sĩ Nhữ Văn Lan quê ở Kiến Thiết (Tiên Lãng, Hải Phòng). Thân mẫu của ông thông minh, học rộng, biết cả lý số. Bà mong muốn lấy chồng sinh con sau này làm vua. Khi còn nhỏ tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tỏ rõ khí chất của một thần đồng. Khi đi học ở Trung Quốc, nhiều câu hỏi ông đặt ra thầy không trả lời được. Do thấy những rối ren thời nhà Lê, ông không đi thi để làm quan mà mở trường dạy học, chờ thời. Đến khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, nhà Mạc trị vì, nhìn thấy những thay đổi tốt đẹp trong xã hội đương thời, ông viết:
Mừng thấy thời vần đời mở trị
Thái bình thiên tử, thái bình dân
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết định ra tranh tài nhằm phò vua, giúp nước khi đã ở độ tuổi 45. Kết quả khoa thi năm Ất Mùi (1535), ông đỗ Trạng Nguyên. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm quan dưới triều Mạc, được phong tước “Trình Tuyền hầu” rồi thăng tới “Trình Quốc công” mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống gần trọn thế kỷ 16, một thế kỷ nhiều biến chuyển mang tầm ảnh hưởng chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc, mà ông vừa là nhân chứng vừa là nhân tố quan trọng tạo nên chúng. Ông đã được ví như “cột chống trời”, là nhân vật kiệt xuất trong hàng ngũ các công thần, đắc lực giúp bốn đời vua nhà Mạc:
Lực phù nhật cốc trụ kình thiên
Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt
Là người xuất thân từ tầng lớp trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp. Ông luôn đề cao tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong sách lược trị nước: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, đắc quốc ưng tri tại đắc dân”. Đồng thời, mạnh mẽ đấu tranh chống lũ quan lại tham nhũng, dâng sớ can gián và đòi xử 18 kẻ lộng thần.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỞI MỞ VÀ THÔNG THOÁNG
Nhà Mạc trị vì Đại Việt trong khoảng thời gian 65 năm (1527- 1592) nhưng đã để lại những thành tựu có ý nghĩa rất lớn, trong đó nổi lên là đường lối kinh tế. Đó là cách tiếp cận cởi mở hơn về kinh tế so với thời Lê sơ. Xuất thân từ tầng lớp bình dân, Mạc Đăng Dung đã tiếp nối truyền thống phong kiến nhà Lê nhưng không theo đuổi nền kinh tế vương quyền, đã nới lỏng, thiết lập một cơ chế kinh tế mới, củng cố cấu trúc tứ dân, mà về bản chất là theo đuổi một mô hình kinh tế đa thành phần, tạo điều kiện và khuyến khích tư nhân, trong đó tập trung cho phát triển nông nghiệp và công thương.
Trong nông nghiệp, việc đắp đê phòng lụt, đào kênh mương làm thủy lợi được các vua Mạc rất chú ý. Đến nay, nhiều đoạn đê như Chân Kim, Kinh Điển (Hải Phòng); đê Hà Nam (Yên Hưng, Quảng Ninh) vẫn được gọi là đê nhà Mạc. Nhiều vùng đất bị bỏ hoang ở ven sông Đá Bạc, sông Hàn (Hải Phòng), sông Kinh Thầy (Hải Dương) được khẩn hoang. Chính sách trị thủy, khẩn hoang đã góp phần làm cho đời sống nông dân ổn định, mùa màng được bội thu. Bên cạnh đó, nhà Mạc vẫn thực thi chính sách ruộng đất trong vùng nhà Mạc cai quản khá chặt chẽ, phân chia một cách công bằng cho các đối tượng như: hoàng tộc, quan lại, nhà chùa và nhất là có chia ruộng cho binh lính, còn lại là chia cho dân, cho phép người dân được mua bán ruộng đất, công nhận đất tư hữu, góp phần thay đổi diện mạo ở nông thôn và nông nghiệp thời Mạc.
Nhiều ngành nghề thủ công (dệt lụa, gốm sứ) cũng được tạo điều kiện phát triển. Trong số các ngành kinh tế, nghề làm gốm phát triển mạnh, với những làng nghề nổi tiếng cho đến ngày nay như Bát Tràng, Chu Đậu. Gốm thời Mạc phát triển đạt trình độ rất cao, không thua kém gốm sứ Trung Quốc và hình thành một phả hệ gốm Mạc với phong cách hoàn toàn mới so với gốm Lý, Trần, Lê mà bộ sưu tập hiện ở trung tâm gốm Bát Tràng. Phong cách phả hệ gốm Mạc là dòng gốm Lam xám có minh văn, tiêu biểu là nhóm đồ lư hương, chân đèn, con nghê gốm được sử dụng làm đồ tế tự, chiếm lĩnh một thị phần quan trọng trong đời sống kinh tế khu vực. Đồ gốm sứ thời Mạc đã có mặt ở khắp các nơi trong nước, khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Nhiều tàu buôn Trung Quốc, Nhật Bản đã mua bán đồ sứ được sản xuất ở Việt Nam thời đó. Thợ thủ công thời Mạc được tự do sáng tác hơn, hàng hóa sản xuất ra được ghi tên người chế tạo, ghi tên người đặt hàng (thương hiệu hàng hóa), đó là một bước tiến lớn trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Qua nghiên cứu đồ gốm có minh văn cho thấy một số tên tuổi như Bùi Huệ, Bùi Nghĩa, Bùi Thị Đỗ, Đỗ Phủ,...
Nghề chạm khắc đá thời Mạc rất phát triển. Các di vật đá vùng Dương Kinh như rồng đá, sấu đá, tượng ông hoàng, bà chúa... ở các chùa vùng Hải Phòng ngày nay như An Đà, Trà Phương, Hòa Liễu, Nhân Trai, Cổ Trai, Bảo Quang, Bạch Đa, Lai Thị,... đủ để khẳng định tầng lớp thợ chạm khắc đá rất đông đảo. Nhiều văn bia hiện còn cho biết có khá nhiều thợ thủ công chạm khắc đá được triều đình sủng ái và được ban những chức Tản quan, Tá lang tướng, Tướng sĩ lang... Điều đó chứng tỏ thợ chạm khắc đá thời Mạc được coi trọng và họ có vị trí nhất định trong xã hội thời Mạc.
Chính sách cởi mở về kinh tế đã hình thành các cảng thị, trung tâm buôn bán hàng. Chỉ tính riêng ở Hải Phòng cũng đã có khá nhiều cảng thị như khu vực Minh Thị, Đền Gắm, Phố Lồ (Tiên Lãng), Dũng Tiến (Vĩnh Bảo), Đò Mía, An Lão, Do Nha (An Dương), Làng Cũ (Cát Bà), Cấm Khê (Thủy Nguyên)... Đây là những khu cảng thị rất sầm uất, hoạt động thương mại ở đây không chỉ phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương mà còn trao đổi thương mại với các khu vực trong nước và quốc tế. Bia chùa Minh Phúc (thôn Minh Thị, xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng) có ghi rõ năm Sùng Khang thứ 7 (1572), Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn đã cung cấp tiền sửa chữa, dựng quán và lập chợ. Chợ Minh Thị còn là một trung tâm buôn bán gốm sứ lớn, dấu tích dài hàng kilômét với nhiều di vật còn lại trong lòng đất.
Tiền tệ đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế hàng hóa và giao lưu kinh tế giữa nước ta với các quốc gia trong khu vực. Nhà Mạc đã nhiều lần cho đúc các loại tiền như: Minh Đức thông bảo (Mạc Đăng Dung), Đại chính thông bảo (Mạc Đăng Doanh), Quảng Hòa thông bảo (Mạc Phúc Hải), Vĩnh Định thông bảo và Vĩnh Định chi bảo (Mạc Phúc Nguyên). Những đồng tiền cổ này đã được tìm thấy nhiều nhất tại di tích Ichijodani Asakusashi tỉnh Fukui (Nhật Bản).
Đánh giá về những năm trị vì dưới thời Mạc Đăng Doanh, Phan Huy Chú có ghi: “tính khoan hậu giản dị. Ông giữ pháp độ cấm hà khắc tàn bạo, ít việc tạp dịch, nhẹ thuế khóa. Bấy giờ được mùa no, người đủ, trong nước gọi thời ấy là bình trị”.
Công nghệ mại thương chi phát triển
Bách tính âu ca nhất thời Ngu Thuấn
Còn Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên”.
Nhận xét về kinh tế thời nhà Mạc, GS. Nguyễn Cảnh Khanh đã nói “Nhà Mạc đã đi tiên phong trong phát triển kinh tế thậm trí trước cả Nhật Bản, vì mãi đến năm 1868, thời kỳ Minh Trị Thiên Hoàng, Nhật Bản mới tiến hành cải cách, mở cửa về kinh tế. Và khu vực Dương Kinh còn phát triển trước cả phố Hiến.
MỞ RỘNG TẦM NHÌN HƯỚNG BIỂN
Trong quá trình thu phục nhân tâm, tập hợp lực lượng, thâu tóm quyền lực, Mạc Đăng Dung luôn hướng về biển, nơi ông đã sinh ra để xây dựng thành trì nhằm củng cố, giữ vững vương quyền nhà Mạc. Ngay sau khi lên ngôi rồi nhường ngôi cho con trai cả là Mạc Đăng Doanh để làm thái thượng hoàng, Mạc Đăng Dung đã lui về Cổ Trai và quyết định lấy trấn Hải Dương và một phần của Kinh Bắc, Thái Bình để làm Dương Kinh. Mặc dù vùng đất Dương Kinh được sử gia Đăng Bính trong Đại Việt sử ký toàn thư bàn là “một xó đất Hải Dương gọi là Dương Kinh để làm kinh đô”. Mạc Đăng Dung cho xây dựng kinh đô thứ hai tại đây không chỉ là thể hiện tình cảm gắn bó trên quê hương mình mà là một tầm nhìn xa, thấy rộng, một tầm nhìn hướng biển “vừa để trấn vững nơi căn bản, và làm ngoại viện cho Đăng Doanh, nhưng vẫn định đoạt các việc quốc gia trọng đại”. Ông mong muốn xây dựng một hải cảng, mở ra con đường giao lưu với bên ngoài, từ đó tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp, thương nghiệp, không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà mở rộng ra thế giới.
Vùng đất Dương Kinh không phải là một “xó đất” mà là rộng lớn bao gồm toàn bộ Hải Phòng, một phần Hải Dương và một phần của các tỉnh Thái Bình, Bắc Ninh ngày nay. Nơi đây có núi cao, sông lớn, biển rộng, dân cư đông đúc và là một vùng kinh tế rất phát triển, có vai trò địa - chính trị, địa - kinh tế rất quan trọng, “đường các nơi đi đến trấn đều được trung độ, không xa, không gần. Ba mặt liền sông, phía bắc thông với sông Lục Đầu, phía đông nam suốt đến cửa biển, tiện đường vận tải”.
Kinh đô Dương Kinh được xây dựng, là nơi ở của Thái thượng hoàng và các triều thần về yết kiến. Trong khu vực xã Cổ Trai và các xã vùng phụ cận đã tìm thấy dấu tích của rất nhiều công trình kiến trúc thời Mạc, nguyên trước là các cung điện: Tường Quang, Phúc Huy, Hưng Quốc, gò Phủ Tín, khu Mả Lăng, nhiều dấu vết của lò gốm thời Mạc trải rộng ra trong một vùng rộng lớn. Như vậy, đương thời, Dương Kinh là một đô thị lớn, đô thị ven biển đầu tiên của Việt Nam. Cho đến nay, chưa tìm thấy dấu vết của thành Dương Kinh, nhưng khi xem xét cảnh quan địa lý vùng này có thể thấy trung tâm của Dương Kinh đã được bao bọc và bảo vệ từ xa bởi hệ thống sông ngòi dày đặc và những căn cứ là những đỉnh núi cao, như núi Thiên Văn, núi Voi, Tràng Duệ, núi Đối... ở phía bắc và tây bắc của Dương Kinh. Mặt phía đông và phía nam của Dương Kinh là Biển Đông và được dải núi Đồ Sơn án ngữ. Phía tây của Dương Kinh được sông Thái Bình, sông Văn Úc, sông Hàn, sông Hóa... che chở. Phía đông và đông bắc Dương Kinh được sông Đa Độ và núi Đối bao bọc. Vì vậy, bốn phía của trung tâm Dương Kinh được biển, nhiều sông, núi che chở. Dương Kinh được bảo vệ từ xa bằng những hào lũy thiên nhiên từ bốn hướng: đông, tây, nam, bắc. Với địa thế này, Dương Kinh là vùng đất rất đắc địa để chọn làm căn cứ, làm hậu cứ của nhà Mạc, đồng thời lại đúng vị trí là quê hương của nhà Mạc.
Từ khi nhà Mạc thành lập và xây dựng trung tâm Dương Kinh thành đô thị, kinh đô thứ hai của vương triều Mạc, thì diện mạo Nghi Dương, Cổ Trai thay đổi căn bản. Nhiều công trình tôn giáo, đình đền, chùa miếu được xây dựng, nhiều thương cảng, các trung tâm sản xuất gốm sứ được phát triển, tạo ra một diện mạo đô thị ven biển rất trù phú của thế kỷ XVI ở Việt Nam. Theo những nghiên cứu và công bố gần đây, trung tâm Dương Kinh có nhiều cung điện, lầu các, có nhiều thương cảng nổi tiếng và có hơn 30 đình, đền, chùa, miếu và công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn của vương triều Mạc. Đồng thời, Nhà Mạc còn cho xây dựng một số thương cảng trên bến dưới thuyền làm nơi giao thương như: Phố Lồ (Tiên Lãng), An Quý (Vĩnh Bảo), Đền Gắm, Minh Thị, Đò Mè (Tiên Lãng), Chu Đậu (Hải Dương), Do Nha, Tân Tiến (An Dương).
Tuy nhiên, Dương Kinh - đô thị ven biển đầu tiên của Việt Nam, đô thị có một thời vàng son kể từ khi Mạc Đăng Dung lên ngôi năm 1527 đến 1592, đến đời Mạc Mậu Hợp, thì bị tàn phá. Trịnh Tùng đã cho quân lính đốt phá, đào bới lăng tẩm nhà Mạc, bia ký bị đập vỡ tan tành, lửa cháy kéo dài hàng tháng trời. Ngày nay, các nhà sử học Việt Nam có chung nhận định Dương Kinh thời Mạc không chỉ là kinh đô hướng biển mà còn là đô thị ven biển đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Một minh chứng khác cho tầm nhìn hướng biển cùng chính sách hướng Đông của nhà Mạc đó là nhận định của Nguyễn Bỉnh Khiêm về vai trò, vị trí của biển Đông. Là người tinh thông địa lý, lý số, có tầm nhìn xa, đoán định thiên cơ, nhìn thấy trước thời cuộc thịnh suy, Trạng Trình đã có những lời khuyên chúa Nguyễn Hoàng: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, nên xin vào Nam để dung thân tránh sự đố kỵ và thanh trừng của chúa Trịnh. Đây chính là hành trình mở mang bờ cõi của nước ta về phía Nam. Ông từng khuyên chúa Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thời ăn oản” để tránh việc thanh trừng chém giết nhà Lê. Đối với nhà Mạc, ông đã khuyên chạy lên Cao Bằng để dung thân...
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại nhưng di sản vô giá là hàng nghìn bài thơ Nôm, thơ chũ Hán, Đặc biệt, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn tính triết lý, giáo huấn, giáo dục con người hướng thiện, có một số triết lý cao siêu, ẩn chứa thông tin dự đoán cho tương lai. Vì vậy, rất nhiều câu, bài thơ của ông được coi là “sấm”, “ký”, đoán định việc đời 500 năm sau, từ khi ông mất đến nay vẫn còn được truyền tụng. Đặc biệt, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đã tìm thấy một tầm nhìn về biển mang tính thời sự, thời đại trong bài “Cự Ngao Đới Sơn” (Con rùa lớn đội núi) của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long bình.
Dịch là:
Biển Đông vạn dặm dang tay giữ
Đất Việt muôn năm vững trị bình
Đây là một dự báo chiến lược thiên tài, thể hiện cái nhìn thấu thời cuộc, mở ra một tầm nhìn xuyên qua nhiều thế kỷ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với vấn đề muốn xây dựng và phát triển đất nước thì phải giữ gìn, bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo ở biển Đông. Đây là một vấn đề không chỉ còn của Việt Nam mà còn là một vấn đề nóng trong các mối quan hệ quốc tế hiện nay.
VÀI LỜI KẾT
Với chính sách kinh tế cởi mở, thông thoáng và một tầm nhìn hướng biển, Nhà Mạc đã kiến tạo nên một xã hội trong mơ, mà trong đó an ninh trật tự được đảm bảo, cuộc sống của nhân dân được no đủ, thiên hạ thái bình. Đó là những kỳ tích mà nhà Mạc đã tạo dựng trong thời kỳ trị vì Đại Việt, mặc dù thời gian là không dài. Nhưng những giá trị đó, trong xã hội ta ngày nay cũng vẫn là ước mơ, mục tiêu cần hướng đến. Và điều hơn thế nữa, kỷ nguyên Mạc đã làm nên một nhân kiệt - Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ, nhà tư tưởng, một nhân cách lớn của thời đại, nhà tiên tri đại tài với tầm nhìn vượt qua nhiều thế kỷ. Tên tuổi và những di sản vô giá trong sự nghiệp mà ông để lại cho đời sau xứng đáng được vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. Ngoài ra, phải nói đến Dương Kinh – kinh đô, đô thị ven biển đầu tiên của Việt Nam, đang rất cần có những nghiên cứu phát hiện mới nhằm bảo tồn những giá trị di sản đang còn chôn vùi dưới lòng đất mà nhà Mạc để lại cho hậu thế đến ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, Hội Sử học Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long-Hà Nội, Vương triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nước, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2015
-
“Đại Việt sử ký toàn thư”, tập I, II, III, IV, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.
-
Hội đồng lịch sử Hải Phòng, Viện Văn học Việt Nam (2005), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
-
Vũ Minh Giang (Chủ biên), Lịch sử Hải Phòng, Tập II, NXB Chính trị quốc gia, Sự thật, 2022
-
GS. Văn Tạo, Nhà Mạc và Thái tổ Mạc Đăng Dung trong lịch sử dân tộc, Vương triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nước, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 2015.
-
GS Nguyễn Văn Kim, Kinh tế công thương thời Mạc, Vương triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nước, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 2015.
-
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí,
-
Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử
-
Nguyễn Văn Sơn, Vài nét về nhà Mạc và Dương Kinh, Vương triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nước, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 2015.