Hải Phòng học

http://haiphonghoc.vn


Đền Quan Đội ở Cát Bà thờ 5 dũng tướng thủy quân triều Nguyễn

Đền Quan Đội ở xã Trân Châu (Cát Hải)

Đền Quan Đội ở xã Trân Châu (Cát Hải)

Thời Nguyễn, Cát Bà thuộc tỉnh Quảng Yên (nay là Quảng Ninh) - một trọng địa ở vùng Đông Bắc Tổ quốc.

Thời Nguyễn, Cát Bà thuộc tỉnh Quảng Yên (nay là Quảng Ninh) - một trọng địa ở vùng Đông Bắc Tổ quốc. Năm 1802 vua Gia Long đặt ra trấn Yên Quảng bao gồm toàn bộ vùng Đông Bắc, lấy khu vực thị xã Quảng Yên hiện nay làm trấn lỵ. Năm 1832, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính, thành lập tỉnh Quảng Yên và trấn lỵ Quảng Yên được đổi thành tỉnh lỵ Quảng Yên.

Do vị trí tiền tiêu ở vùng biển Đông Bắc Tổ quốc, đảo Cát Bà có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng không những dưới thời Nguyễn mà cả thời nay.

Ở xã Trân Châu trên đảo Cát Bà có một di tích quan trọng là ngôi miếu mà nhân dân nơi đây gọi là miếu Quan Đội (danh từ gọi người chỉ huy quân đội – lãnh quân) được dân chúng lập lên nhằm tri ân, thờ phụng những dũng tướng thời Nguyễn hy sinh khi chiến đấu bảo vệ vùng biển Đông Bắc.

Miếu tọa lạc tại khu vực cửa cống Duông (thôn Bến) xã Trân Châu thờ 5 vị lãnh quân đã tử tiết trong một trận đánh giặc cướp vùng biển Đông Bắc. Từ một ngôi miếu đơn sơ ban đầu, năm 2011 và những năm sau này nó đã được nhân dân và chính quyền xã Trân Châu xây dựng ngày càng bề thế. Đền được xây dựng theo kiến trúc truyền thống có mặt chính hướng ra biển. Nội thất đền được bài trí đồ thờ tự trang nghiêm với bài vị của 5 vị dũng tướng. Đặc biệt, trong khuôn viên của đền vẫn còn ngôi mộ của Đề đốc Lê Quang Tiến và bốn vị tướng khác. Hàng năm, cứ vào ngày Mùng 3 tháng 9 âm lịch, nhân dân xã Trân Châu lại mở lễ hội truyền thống tôn thờ các vị tướng đã bỏ mình vì nước, thu hút đông đảo nhân dân và du khách. Ngoài ra, những ngày Mùng một, ngày Rằm nhân dân địa phương cũng đều hương khói thờ phụng, cầu mong các vị tướng linh thiêng phù hộ việc đi biển bình an, làm ăn may mắn.

Nói qua hoàn cảnh lịch sử để thấy rõ công lao và sự hy sinh anh dũng của Đề đốc hải quân Lê Quang Tiến và 4 thuộc tướng nhà Nguyễn.

Dưới thời vua Tự Đức, giặc biển hoành hành trên nhiều vùng biển nước ta và trở thành vấn đề nan giải của triều Nguyễn. Đặc biệt, nhóm cướp biển Tạ Quang Phụng đã hoạt động một cách công khai, ngang nhiên tấn công cướp phá trên vùng Biển Đông. Để đối phó với thực trạng căng thẳng này, năm 1863, triều đình nhà Nguyễn đã phái Lê Quang Tiến làm Hải Yên thủ đạo Đề đốc (chỉ huy thủy quân vùng biển Quảng Yên) dẫn quân đánh dẹp cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng. Trong thời gian này, ông được nhà vua sắc phong là Nghiêm Uy Tướng Quân Thống Chế, mang hàm Chánh Nhị phẩm Võ ban (cao thứ 2 hàng tướng võ). Phải là người có tài năng và rất được tin cẩn nên Lê Quang Tiến mới được giao phó chức vụ quan trọng và gian khó như vậy. Sách “Đại Nam Liệt truyện” của Quốc Sử Quán triều Nguyễn có đoạn chép khen ngợi Lê Quang Tiến như sau: “Vua ban rằng Lê Quang Tiến làm được việc nên thăng sung Hải Dương Quân thứ Thủy đạo Thống chế” (1).

Nói thêm về tướng cướp Tạ Quang Phụng: Y là tên tay sai đắc lực do thực dân Pháp đào tạo. Đầu năm 1861, Tạ Văn Phụng mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để tập hợp lực lượng, lấy Cát Bà làm căn cứ chính, tranh thủ sự giúp đỡ của một số nhà truyền giáo phương Tây nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển, thanh thế lớn, gây thêm khó khăn cho triều Nguyễn. Tạ Văn Phụng có một cha cố tên là Trường làm mưu sĩ cùng các giáo dân Ước, Độ dấy binh ở Quảng Yên, liên kết với giặc Khách (tàn quân của Thái Bình Thiên Quốc) ở biên giới Việt - Trung đánh chiếm phủ Hải Ninh (thuộc Quảng Ninh nay), rồi theo đường sông ra biển cướp phá nhiều vùng ven biển. Để tăng thêm thanh thế, Tạ Văn Phụng liên kết với Nguyễn Văn Thịnh (tức Cai tổng Vàng) đánh phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng và Bắc Ninh khiến tình hình nhiều phen rất nguy ngập. Đội quân của Tạ Quang Phụng có lúc lên tới 3.000 tên, với hàng trăm tàu thuyền. Mục đích của Tạ Văn Phụng là gây bạo loạn ở Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh nhằm thăm dò lực lượng quân sự Bắc kỳ của triều Nguyễn, quấy rối hậu phương triều đình, thu thập tin tức cung cấp cho quân Pháp, phát động dân theo đạo Thiên Chúa ở Bắc kỳ, chờ khi quân Pháp tiến ra thì nổi dậy đánh chiếm các phủ huyện, làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đưa đường cho quân Pháp đánh chiếm hoàn toàn nước ta.

Sử sách ghi lại: Năm Tự Đức thứ 16 (1863), nhóm thổ phỉ Tạ Quang Phụng dùng 2 tàu Pháp, 10 tàu nhà Thanh, 200 tàu cướp biển người Việt vào sông Bạch Đằng phá đê Hà Nam (đê nhà Mạc ở Quảng Yên), chiếm lũy để đồn trú, cướp - phá Hà Nam và trấn lỵ Quảng Yên của tỉnh Quảng Yên. Thủy đạo Thống chế Hải Yên là Lê Quang Tiến chỉ huy quân phòng thủ Hải Yên và nhân dân xã Phong Lưu tiến công, đánh cho thổ phỉ tan tác, buộc chúng phải rút chạy ra vùng biển đảo Cát Bà và núi Đồ Sơn.

Giặc biển từ khi thua trận ở Hà Nam Phong Cốc, đem hơn 500 chiếc thuyền chia đậu ở vùng đảo Cát Bà và Đồ Sơn với ý định vào đánh kinh kỳ Huế, nhưng chẳng may gặp gió bão làm thuyền đắm và tổn hao nhiều binh tướng. Đề đốc Lê Quang Tiến và Hộ lý Tuần phủ Bùi Huy Phan nắm được tình hình đã đem quân ra đảo Cát Bà tiêu diệt giặc, không ngờ lũ quân Tạ Văn Phụng dùng bộ binh, lính thủy vây kín bốn mặt. Theo truyền ngôn của người dân Trân Châu, quân Lê Quang Tiến không thông thạo địa hình núi non hiểm trở của vùng biển đảo nên đạo quân triều đình bị giặc vây hãm và dồn lên núi, kêu gọi đầu hàng. Trong lúc thế cùng lực kiệt, 5 vị tướng đã chọn mỏm núi đá cao và thề rằng “quyết không đầu hàng giặc” rồi lao xuống biển tự tiết để tỏ lòng trung thành với triều đình. Tương truyền, sau khi Lê Quang Tiến tử trận, xác của ông cùng với bốn vị tướng khác là Bùi Huy Phan, Nguyễn Đình Thông, Nguyễn Khắc Hòe, Trần Văn Nhiếp trôi dạt vào bờ biển, được nhân dân vùng đảo Cát Bà chôn cất và lập miếu thờ từ đó.

Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn có đoạn ghi chép như sau: “Đề Đốc là Lê Quang Tiến, hộ lý Tuần phủ Bùi Huy Phan cho rằng thẳng đánh vào sào huyệt của giặc có thể thành công. Bèn chia đường mạo hiểm tiến quân. Không ngờ viên biền đạo Hậu quân là bọn Khổng Trung, Phạm Do gặp quân giặc đến đánh, chạy trước; Trung, Tiền 2 đạo bị giặc đánh ập lại, Quang Tiến, Huy Phan tự gieo mình xuống biển chết. Vua cho Quang Tiến, Huy Phan là người được việc, rất tiếc, đặc biệt gia ơn hậu cấp cho tiền tuất, mà trị tội nặng những kẻ bỏ chạy trước”(2) (Trung, Do bị tội chém).

Trước tiết tháo và lòng trung quân, ái quốc của các tướng lĩnh đã bỏ mình vì nước và tưởng nhớ công lao giữ gìn bờ cõi của Lê Quang Tiến, đầu năm 1864, vua Tự Đức ban sắc truy tặng ông hàm Tráng Vũ Tướng quân Đô thống phủ Đô thống, mang hàm Tòng Nhất phẩm Võ ban (hàm cao nhất hàng tướng võ) và ban cho tên thụy là Vũ Khác. Đến năm Tự Đức thứ 33 (1880), triều đình đã cho đem linh vị của ông vào phối thờ tại đền Trung Nghĩa thuộc Kinh đô Huế, bên cạnh các danh thần nhà Nguyễn như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Trương Quốc Dụng...

Đề đốc Lê Quang Tiến quê làng La Chử (nay thuộc phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), là một võ tướng có tinh thần kiên cường chống Pháp. Trước khi lĩnh chức Thống binh thủy quân triều đình chống giặc vùng biển Đông Bắc ông đã từng nhiều lần chỉ huy quân, dân miền Nam anh dũng kháng Pháp, không theo phái chủ hòa trong triều đình Nguyễn mà nhân nhượng thực dân Pháp xâm lược. Hiện nay tại nhà thờ chi họ Lê Quang ở làng La Chử có thờ người anh hùng này. Tại đây còn lưu giữ 22 sắc phong và sắc chỉ của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức gia phong cho Lê Quang Tiến chức tước và phẩm hàm về công lao diệt giặc biển, thành tích trong quân đội cũng như vai trò ổn định tình hình xã hội những nơi ông được phân công trấn nhậm. Thân phụ ông là Lê Quang Tĩnh và thân mẫu Hà Thị Tần cũng được nhà vua ban tặng hai đạo sắc phong. Ngoài ra, con ông là Lê Quang Hậu và cháu đích tôn là Lê Quang Phong cũng được vua ban tặng sắc phong. Lê Quang Tiến là tấm gương sáng làm vẻ vang cho dòng họ và quê hương ông.

Trong sắc phong của vua Tự Đức ban tặng sau khi ông mất (Dịch nghĩa)

đoạn thật cảm động: “... Một trận Cát Bà sóng dậy, thuận theo thuyền chiến đánh trống giương cờ đi trước, hẹn giờ đánh thẳng quân giặc, nào ngờ hậu đạo thất cơ nên người lâm nạn chìm đáy biển. Khẳng khái da ngựa bọc thân, thong dong chết nhẹ tựa hồng mao. Với tấm lòng trung, cần ban thêm danh hiệu vẻ vang. Nay đặc biệt truy tặng ngươi làm Tráng Vũ Tướng quân, Đô thống phủ Đô thống, thụy là Vũ Khác, ban cho cáo mệnh. Hỡi ôi! Ghi thành tích rực rỡ, nêu cao ân đức thầm lặng nơi biển Đông, để hồn phách tĩnh yên, còn phảng phất nơi bể cả. Sáng thay hồn thiêng, hãy kính lấy vâng mệnh.

Ngày 28 tháng Giêng, năm Tự Đức thứ 17” (1864).

Để tỏ lòng biết ơn sâu sắc và ghi nhận công lao to lớn của Đô thống Lê Quang Tiến, tại quê hương ông, ngày 23/12/2013, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quyết định đặt tên Lê Quang Tiến cho một con đường tại phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, năm 2014, UBND Thị xã Hương Trà cũng đã ra Quyết định đổi tên trường THCS Hương Chữ thành trường THCS Lê Quang Tiến.

Miếu Quan Đội xưa (nay là đền Quan Đội) đã và đang được tôn tạo ngày một khang trang, thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách đến dự lễ hội tri ân công lao, tiết tháo của những dũng tướng đã bỏ mình vì nước, vì dân. Để nơi đây trở thành Di tích vật thể ghi dấu những giá trị văn hóa về lòng yêu nước, tinh thần quật cường của nhân dân ta cùng truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, Phòng Văn hóa & Thông tin - thể thao huyện Cát Hải đang hoàn thiện hồ sơ trình UBND thành phố công nhận đền Quan Đội là di tích lịch sử cấp Thành phố.

Hy vọng đền Quan Đội được công nhận là Di tích lịch sử sẽ góp phần tô thắm trang sử hào hùng, lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân huyện đảo Cát Hải nói riêng. Ngoài ra, đây sẽ trở thành một trong những điểm thăm quan trong các tour du lịch văn hóa – tâm linh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Thành phố.

Tài liệu tham khảo:

(1).Đại Nam liệt truyện”, tập 4//Quốc Sử Quán triều Nguyễn. - Nxb. Thuận Hóa, Huế. – 1993; Tr. 339).

(2). “Đại Nam thực lục”, tập 7//Quốc Sử Quán triều Nguyễn. - Nxb. Giáo dục, Hà Nội. – 2007; tr. 820.

Phạm Văn Thi, Hội khoa học Lịch sử HP.

Tác giả: admin

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây