Hải Phòng học

http://haiphonghoc.vn


Sơ lược lịch sử miếu Hai Bà

Vào cuối triều đại nhà Lý, cách đây khoảng 700 năm, hầu hết địa vực thôn An Đà là một bãi sú vẹt cận tiếp với làng An Biên thuộc huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Đông. Tại đây có một con lạch chạy qua, bắt nguồn từ chùa Vẽ đến cầu Gù giáp đường Thiên Lôi và có một gò cao, cây cối um tùm xanh tốt nằm ngay vị trí miếu An Đà hiện nay.
           Vào cuối triều đại nhà Lý, cách đây khoảng 700 năm, hầu hết địa vực thôn An Đà là một bãi sú vẹt cận tiếp với làng An Biên (1) thuộc huyện An Dương (2), phủ Kinh Môn, trấn Hải Đông.
           Tại đây có một con lạch chạy qua, bắt nguồn từ chùa Vẽ đến cầu Gù giáp đường Thiên Lôi và có một gò cao, cây cối um tùm xanh tốt nằm ngay vị trí miếu An Đà hiện nay.
          Theo tương truyền: “Có nhiều ngư dân ở các làng Hàng Kênh, An Biên và các nơi khác thường qua lại đánh bắt cá trên con lạch, và nếu như qua gò cao dừng lại khấn Bà Hiển Thánh thì đánh bắt được rất nhiều cá. Bà Hiển Thánh là một cận vệ của Bà Lê Chân chết trận và được an táng trên gò cao” (Hiển Thánh có nghĩa là linh hồn được siêu thoát lên bậc Thần Thánh).
          Từ đó, người ta cho rằng: “Khu vực này là nơi có thể làm ăn thành đạt”, nên có một số ngư dân ở địa phương khác đến định cư khai khẩn trên vùng này, biến bãi bồi thành ruộng nương làng xóm, rồi dựng lên miếu gianh ngay trên gò cao để thờ Bà Hiển Thánh và thành lập thôn Đà Cụ thuộc xã An Biên.
           Trải bao thế hệ tiếp nối, người dân Đà Cụ không những vẫn một thuyền một lưới bồng bềnh trên con lạch mà còn chăm lo việc xuân canh thu hoạch để đảm bảo cuộc sống trên mảnh đất tôn tạo của mình và cùng chung với người cựu dân xã An Biên xây dựng làng xã ngày thêm phong phú. Thôn Đà Cụ dần trở nên đông đúc bao gồm có các họ như họ Phan từ Thanh Hóa về, họ Đặng từ Hàng Kênh đến, họ Nguyễn, họ Phạm,…
           Nhưng sau do sự phát triển đông đúc, sung túc hơn, nhân dân Đà Cụ đã nhất tâm bán trên 20 mẫu ruộng công điền vào triều đình xin thành lập biệt xã và phong sắc “Thần Hoàng phụng sự”.
Được nhà vua chuẩn y cho thôn Đà Cụ tôn thờ Bà Hoàng Phi Nguyễn Thị Kim. Bà Hoàng Phi là người chính trực, nhân đức, có lòng giữ nước che dân (Theo sắc phong Thành Thái nguyên niên, tức năm 1889). Và mãi đến năm 1909 – Duy Tân thứ 3, thôn Đà Cụ mới được triều đình cho thành lập biệt xã với danh hiệu là xã An Đà thuộc tổng Đông Khê, huyện Hải An, tỉnh Hải Phòng.
           Rất vinh dự tự hào với tên xã mới của mình, nhân dân An Đà liền thuê thợ tạc tượng, đóng ngai kiệu, tu tạo đền miếu để tôn thờ Bà Hoàng Phi trinh nghĩa. Và cũng từ đó, người dân An Đà đã kiêng gọi tên húy của Thần Hoàng, nên gọi cây kim là cây khâu.
           Cách 2 năm sau, bỗng nhiên có bệnh dịch lan tràn vào trong xã làm chết nhiều trâu bò lợn gà,…, dân tình lấy làm lo sợ và cho rằng: Đây là một sự quở trách của Bà Hiển Thánh vì Bà là người thờ trước mà không được tạc tượng phụng thờ!. Vì vậy, nhân dân An Đà lại một lần nữa dâng biểu xin triều đình phong sắc cho Bà Hiển Thánh và được nhà vua cấp sắc phong là: “Hiển Thánh Chi Thần” (Sắc phong Duy Tân năm thứ 5 – 1911).
           Sau khi rước sắc về thờ, nhân dân lại tạc tượng, mua sắm ngai kiệu để phụng sự Bà Hiển Thánh. Từ đó, xã An Đà và các xã lân cận gọi là: miếu Hai Bà.
          Do thực tế mở mang kiến thiết tỉnh thành và phát triển đường sá giao thông, nên con lạch dần dần bị chia cắt thành nhiều đoạn. Đoạn từ cầu Miếu Chè đến giáp đường cái quan – đường Lạch Tray ngày nay, gọi là đầm An Đà. Về sau, phát triển thêm đường từ Quán Bà Mau xuống, nay là đường An Đà, đã chia đôi đầm, nhân dân gọi là đầm trong và đầm ngoài.
          Sau hòa bình lập lại, thành phố chủ trương tổ chức quy mô các xã, nên hợp nhất 3 thôn Phụng Pháp, Nam Pháp, An Đà thành xã Đằng Giang thuộc huyện An Hải, nay là phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
           Như vậy, trên địa bàn phường Đằng Giang, cùng miếu Hai Bà, cũng có những nơi phụng thờ rất tôn nghiêm khác như: Đình Phụng Pháp và Nam Pháp thờ phụng Đức Ngô Vương và Đức Đông Hải Đại Vương; chùa Phụng Pháp và An Đà thờ phụng Đức Phật; nhà thờ Nam Pháp thờ phụng Đức Thiên Chúa; miếu thờ phụng Bà Chúa Tiên Nàng; cây đa cổ thụ 13 gốc với vẻ đẹp hiếm có, có miếu thờ phụng Đức Thổ Vương,…. Đó chính là hiện hữu sinh động nhất đối với sự không ngừng vun đắp, hưng long truyền thống quý báu “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, mà cũng là tấm lòng rất thành kính luôn cầu mong cho ngày càng “Quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc” được nhiều hơn lên.
Tháng 11, năm 2022
(Sao lục theo văn bản năm 1990)
1- Làng An Biên, tên tục là làng Vẻn, nay thuộc địa hạt quận Lê Chân.
2- Huyện An Dương thời bấy giờ bao gồm huyện An Hải và hầu hết nội thành Hải Phòng ngày nay.
 
 
ĐẾN VỚI ĐÌNH PHỤNG PHÁP VÀ CÁC DI TÍCH LIÊN QUAN

           Sau hòa bình lập lại, thành phố có chủ trương quy mô lại các xã, nên hợp nhất 3 thôn Phụng Pháp (1), Nam Pháp, An Đà thành xã Đằng Giang thuộc huyện An Hải, và đến tháng 3 năm 1987, đã tách chuyển xã Đằng Giang thành phường Đằng Giang sang thuộc quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng (2).
           Trong 3 thôn làng, thì làng Phụng Pháp, tục gọi là làng Phọng, là có sớm nhất, cổ xưa nhất từ cách đây khoảng trên dưới 400 năm. Theo các vị cao niên: Ngày ấy, có một vị quan lớn trong triều đi tuần thú, nên ngài và đoàn chỉ mặc thường phục, thấy người và cảnh chất phác, lam làm, bình yên, đặc biệt ông thấy một cảnh tượng – Có đôi vợ chồng nọ, chồng cày vợ cấy, khi nghỉ giữa buổi, người vợ lại còn đi lấy nước mời chồng. Cảm kích, ngài và đoàn tùy tùng lại gần. Đôi vợ chồng chú tâm làm việc, nên người chồng sơ ý để chút bùn đất bám lên quần áo của vị quan. Thấy vậy, họ nhận lỗi, và người vợ đã vội lấy khăn đội đầu lau sạch bùn đất trên áo quần của vị quan đó, rồi mời nước ông và đoàn. Với tất cả những cảnh tượng ấy, vị quan lớn đầy cảm động và đặt tên cho làng là “làng Phụng Pháp - 奉灋”, như để ghi nhận và chúc phúc cho bà con là luôn biết trọng phụng pháp chế, pháp luật. Làng Nam Pháp - 南灋 được có tên gọi vào cuối thế kỷ 19, và theo nhân dân quan niệm là vì làng nằm ở phía nam của làng Phụng Pháp. Thôn làng An Đà - 安陀, trước đây có tên gọi là Đà Cụ - 陀具 thuộc xã An Biên. Đến năm 1909 – Duy Tân năm thứ 3, được đổi tên thành xã An Đà thuộc tổng Đông Khê, huyện Hải An, tỉnh Hải Phòng. Và cũng theo nhân dân thường được hiểu thì tên gọi An Đà có nghĩa là một nơi luôn có được cuộc sống an lành, bình an.
           Khi được thành lập với tên làng xã, bao giờ nhân dân cũng có dâng biểu xin cấp sắc phong của triều đình đương đại để được thờ phụng 5 Thần Hoàng. Và làng Phụng Pháp được thờ phụng Đức Ngô Vương Thiên Tử và Đức Đông Hải Đại Vương, làng Nam Pháp được thờ phụng Đức Ngô Vương, làng An Đà được thờ phụng Hai Bà là Bà Hoàng Phi Nguyễn Thị Kim cùng Bà Hiển Thánh.
           Như vậy, nhân dân làng Phụng Pháp được dựng xây ngôi đình để phụng thờ Đức Ngô Vương và Đức Đông Hải cũng từ khi có tên làng tên xã của mình!
           Đình Phụng Pháp ngày nay, tên chữ là “亭壽慶 - Khánh Thọ đình”, nhân dân làng Phụng Pháp và các làng lân cận còn gọi là đình Trung hoặc đình Chung. “Khánh Thọ đình” với ý nghĩa rất tốt lành mà sâu sắc là: “Ngôi đình là nơi luôn mang đến cùng luôn đón nhận những thắng lợi, niềm vui, niềm hạnh phúc mãi mãi gắn liền, nối dài và vang vọng với quê hương, non sông, đất nước!”
           Ban đầu, đình được xây dựng ở xóm Trại, sau được di chuyển về xóm Trung. Xa xưa nhất, đình được làm bằng tre nứa. Đến năm Thiệu Trị thứ 6 – 1864, và năm Tự Đức thứ 34 – 1881, đình được tu tạo bằng gỗ. Tới năm Bảo Đại thứ 16 – 1942, lại với sự đóng góp lớn của nhân dân làng Phụng Pháp và các nhà hảo tâm gần xa, đình được xây cất mới bằng gỗ lim vững chắc cho đến ngày nay. Và để càng gìn giữ, tôn tạo, hưng long được như ngày nay, đó chính là thành quả rất thành kính của các thế hệ tiếp nối trong phường, cùng luôn có được sự quan tâm trợ giúp rất lớn của các cấp chính quyền, của ngành văn hóa và các nhà hảo tâm.
           Theo các nhà chuyên môn, đình Phụng Pháp nằm trong quần thể các công trình tôn giáo, tín ngưỡng xưa của làng với hệ thống đình, chùa, đền, miếu được xây dựng có quy mô lớn, hoàn chỉnh, nguyên vẹn vào bậc nhất của đô thị Hải Phòng ngày nay. Đình là một công trình kiến trúc nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, có giá trị mỹ thuật cao, và mang những nét tiêu biểu của phong cách trang trí điêu khắc trên kiến trúc gỗ thời kỳ giữa thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20.
           Đến nay, bản đình còn lưu giữ được những hiện vật quý giá như: Tượng thờ, long ngai, bài vị, kiệu bát cống, sắc phong, ngọc phả, một cây trúc đài đá niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 – 1774, một bia đá niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42, ba bia đá thời Nguyễn gồm các triều Vua Tự Đức, Thành Thái, Khải Định, câu đối, đại tự, cùng nhiều tư liệu cổ.
           Trong sự phát triển của làng Phụng Pháp, vào năm 1942, nhân dân còn xây dựng được một ngôi đình mà mọi người quen gọi là đình Bắc khá bề thế. Đình cũng phụng thờ Đức Ngô Vương. Nhưng sau do sự quy hoạch của quận cùng thành phố, nên hiện nay khu đất đình Bắc đó thuộc về địa giới trường mẫu giáo Sao Sáng 7 của phường.
           Với Thần tượng Đức Ngô Vương, chính quyền cùng nhân dân đã sửa lễ để tôn rước Nhà Ngài về an vị ở “Khánh Thọ đình”. Vì vậy, khi về dâng hương, kính lễ Đức Vua, chúng ta thấy bản đình có hai Thần tượng thờ phụng Nhà Ngài.
           Cũng chính vì những căn gốc cùng với quần thể và kiến trúc như vậy, mà đình Phụng Pháp cùng chùa Bảo Quang, đã được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp bằng công nhận là: “Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia” vào năm 1994.
          Theo các bậc cao tuổi, địa phận ngày nay thành phố quy hoạch để xây dựng Nghĩa trang Liệt sỹ rất khang trang của quận Ngô Quyền, trước đây là nơi xây cất miếu thờ Bà Chúa Tiên Nàng cùng từ chỉ thờ cụ Khổng Tử và bài trí văn bia.
         Bà Chúa Tiên Nàng, nhân dân còn gọi là Bà Chúa Tân Nàng. Bà là người con gái rất xinh đẹp trong một gia đình họ Vũ thuộc xã Gia Viên và là Vị nữ tướng rất giỏi giang chuyên đảm nhiệm việc quân lương cho tướng sỹ trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Sau chiến thắng oanh liệt đó, Bà được Đức Vương phong là: “Ngô Vương Vũ Quận Chúa”.
          Theo tương truyền, Bà ở lại làng Gia Viên, lại chuyên lo giúp cho nhân dân làm ăn, sinh cơ lập nghiệp, đến trước khi mất, Bà có căn dặn làng xã, cháu con rằng: “Cả cuộc đời, ta đã sống để phụng sự Đức 7 Vương, nay có thác xuống, ta cũng chỉ mong được theo hầu Nhà Vua mà thôi!”. Chính vì vậy, nhân dân một số nơi cũng như làng Phụng Pháp đều thường có phối hưởng thờ Bà liền gần đình miếu phụng thờ Đức Ngô Vương Thiên Tử. Đến năm 1924, Nhà Vua Khải Định cấp sắc phong cho Bà là: “Ngũ Phương Vũ Quận Quyến Hoa Hộ Quốc Trang Huy Thượng Đẳng Thần”
          Trong văn hóa đạo Thờ Mẫu đặc sắc của dân tộc – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Chúa Bà là Vị nữ thần có quyền năng cao và vốn là Vị tiên nữ trên thiên đình thác sinh vào gia đình họ Vũ tại làng cổ Gia Viên để hộ quốc thời Đức Ngô Vương. Chúa thác vào ngày 16 tháng 6 âm lịch. Khi hồi tiên về trời, Chúa được Mẫu giao quyền cai quản, chở che năm phương trời đất, bản cảnh bản xứ ngũ phương. Danh xưng của Bà còn là: “Bà Chúa Quận Năm Phương” hoặc “Vũ Quận Bạch Hoa Công Chúa”.
          Hiện nay, miếu thờ Bà Chúa Ngũ Phương đã được chuyển tới xây cất rất tôn nghiêm, đẹp sáng cùng tại khuôn viên “Khánh Thọ đình”.
          Từ nhiều năm nay, trong tâm linh của nhân dân trong ngoài thành phố, với vẻ đẹp hiếm có, Cây Đa 13 Gốc – Cây Di Sản Việt Nam, cũng chính còn là một nơi Bà Chúa Năm Phương về đây ngự trị, nên nơi đây, cũng đã và đang trở thành là một trong những địa danh du lịch tâm linh thành kính nổi tiếng ở Hải Phòng.
          Khi hợp nhất 3 thôn để thành xã thành phường, quanh xã quanh phường có nhiều cánh đồng trồng lúa cấy rau, đồng thời cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của nhân dân trong phường trong xã, như: Cánh đồng Khuây, cánh đồng Bớp, đồng Ninh, đồng Láng, đồng Dậy, đồng Lăng và đồng Mã Lan. Đến nay, theo quy hoạch phát triển đô thị của thành phố, phường chỉ còn lại 2 cánh đồng, và cũng chỉ còn đất để lưu giữ những hài cốt của nhân dân đã được “cát táng”.
          Với cánh đồng Lăng (陵將軍 - Lăng mộ tướng quân), nhân dân trong phường còn gọi là đồng Sau Miếu hoặc đồng Mả Tướng. Vì theo tương truyền, đó là nơi an nghỉ của Vị tướng quân tử trận trong 8 chiến dịch Bạch Đằng năm 938. Chính vì vậy, trên cánh đồng này, từ ngày ấy, nhân dân đã không bao giờ để “hung táng” tại đây, và nếu có để “cát táng” thì người dân cũng đã không bao giờ để ở vùng trung tâm nhất của gò đống cao, mà chỉ đặt ở xung quanh xa trung tâm đó.
          Với cánh đồng Mã Lan - 馬欄, có nghĩa là chuồng nhốt thả ngựa, vì cũng theo tương truyền, đó chính là một nơi nhốt giữ ngựa của tướng sỹ thời Đức Ngô Vương trong chiến dịch trên sông Bạch Đằng lịch sử vẻ vang của dân tộc.
          Với tất cả những sử tích như vậy của đình Phụng Pháp và các di tích có liên quan, nhân dân phường Đằng Giang cũng đã và đang thấy như thật có nhiều lý, nhiều nghĩa, nhiều tình, và cũng rất tự hào, khi phường của mình được chuyển sang thuộc về với quận Ngô Quyền, mà chiến thắng lịch sử, uy danh lẫm liệt, vang dội đến ngàn thu trên dòng Bạch Đằng Giang - 白滕江 lần thứ nhất, đã gắn liền với công lao vĩ đại của toàn dân cùng với Vị Anh hùng dân tộc – Vị Vua đứng đầu các vua – Ông Tổ trung hưng nền độc lập và văn minh Việt Nam thế kỷ thứ 10 – Thượng đẳng tối linh đại vương – Đức Tiền Ngô Vương Thiên Tử.
Tháng 11, năm 2022
Nguyễn Minh Thuỵ và cộng sự
Ban Khánh Tiết đình Phụng Pháp Kính Lễ !!
(1). Theo Hội “Hải Phòng học”, trên khắp cả nước, đến nay mới chỉ thấy có 2 làng với tên gọi là “làng Phụng Pháp”, 1 ở Hải Phòng và 1 ở Bắc Ninh.
(2). Do sự phát triển của đất nước về mọi mặt, trong đó có sự phát triển về dân số và các hộ gia đình, cùng theo dòng chảy của lịch sử, làng Phụng Pháp, phường Đằng Giang, ... từ xa xưa, thuộc về trấn Hải Đông, Hải Dương, tỉnh Hải Dương, tỉnh Kiến An, tỉnh Hải Phòng, và nay là thành phố Hải Phòng.
Ghi chú: - Trân trọng nhận được các ý kiến góp ý cho sâu sắc nhất của các vị cao niên và bạn đọc - Các ý kiến xin gửi về: Nguyễn Minh Thụy,
ĐT: 0904.253.112,
Email: [email protected]
Xin kính mời Quý khách trong ngoài thành phố, có những dịp, những lúc theo “Du lịch tâm linh”, cũng có thể trở về với quê phường Đằng Giang chúng tôi ! Rất trân trọng !!

Tác giả: abc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây