Đền thờ ca công và nghệ thuật hát Ca trù từng có ở làng Kính Chúc xưa.
- Thứ năm - 21/11/2024 21:21
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Làng Kính Chúc xưa nay là thôn Cung Chúc xã Trung Lập, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Lần theo Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng, xuất bản năm 1998, do nhà sử học Ngô Đăng Lợi chủ biên có ghi rằng:
“Thôn Cung Chúc thời cổ là Kính Chúc. Thôn thuộc xã Trung Lập, huyện Vĩnh Bảo. Trước năm 1945 là xã Cung Chúc, Tổng Viên Lang, phủ Vĩnh Bảo, Trấn Hải Dương.
Trước năm 1813 là xã Kính Chúc, Tổng Viên Lang, Huyện Tứ Kỳ, Trấn Hải Dương. Từ năm 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo. Đời Đồng Khánh đổi thành Cung Chúc. Thời cổ gọi là trang Kính Chúc.
Tại địa phương có đình thờ bốn vị Thành hoàng làng và từng có đền Tam Thánh thờ đức Thánh Trần, nghè (miếu) thờ nhị vị tổ sư Ca trù là quần thể kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Trong đó bốn vị Thần hoàng là:
1. Thuần Chính: Bà là người giúp Trưng Nữ Vương đánh Tô Định và được hai bà Trưng phong “Nội Thị Tướng Quân Vĩnh Hòa Công Chúa”
2. Thanh Tính Long Cung Chi Thần
3. Quí Minh
4. Hải Khấu Đại Bàng Chi Thần
Cả bốn vị đều được thờ bằng ngai và bài vị trước năm 1838. Xã Cung Chúc còn lưu giữ được các sắc phong thuộc các đời vua
- Thiệu Tự 4 (1843)
- Tự Đức 3 (1850)
- Tự Đức 33 (1880)
- Đồng Khánh 2 (1887)
- Duy Tân 3 (1910)
- Khải Định 9 (1925)
Miếu Ca công nghề hát Ca trù ở Kính Chúc thờ:
- Đinh Dự Thanh Xà Đại Vương.
- Mãn Đường Hoa Công Chúa.
Mãn Đường Hoa công chúa không rõ ngày sinh, hóa cùng ngày với Đinh Dự. Thời Lê, Đinh Dự gặp bà Đường Hoa ở Nga Sơn kết làm vợ chồng, cùng giúp vua đánh giặc Minh. Cả hai vị đều được thờ bằng tượng gỗ ở nghè.
Các làng có nghề hát Ca Trù như Đông Môn, Lỗ Khê đều thờ ngài Đinh Dự và Mãn Đường Hoa làm tổ nghề”.
Như vậy, theo ghi chép trong tài liệu trích dẫn và trên thực tế tại địa phương, đình Cung Chúc là quần thể kiến trúc nghệ thuật có giá trị đặc biệt. Công trình văn hóa tâm linh này đã được bộ văn hóa xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa (LS-VH) cấp quốc gia năm 1962, là một trong những di tích được xếp hạng sớm nhất ở nước ta.
Với niềm đam mê tìm hiểu trầm tích lịch sử văn hóa quê nhà, nhóm con em làng Cung Chúc với sự động viên khích lệ của các nhà hoạt động văn hóa dân gian đã tìm hiểu những trầm tích văn hóa lung linh, hấp dẫn ở Cung Chúc mà con cháu hậu thế ít ai biết để góp phần giáo dục tình yêu quê hương và lòng tự hào về địa phương.
Nói đến Ca Trù phải nói điển tích tổ nghề sáng tạo nên bộ môn nghệ thuật này đã được thờ tại Nghè (đền thờ ca công làng Cung Chúc )
Lần theo phả tịch về Đinh Dự - tổ nghề Ca Trù tại làng Lỗ Khê, xã Liên Hòa, huyện Đông Anh, Hà Nội, là đất tổ nơi phát tích của Ca Trù thấy ghi chép như sau:
Phụ thân ngài Đinh Dự là Đinh Lễ, quê ở động Hoa Lư, huyện An Khánh, phủ Trường Yên, Đạo Thanh Hóa, teo Lê Lợi đánh giặc Minh, từng đóng quân ở Lỗ Khê. Thân mẫu của ngài là bà Trần Minh Châu, theo chồng đi đánh giặc, sinh con trai ở Lỗ Khê ngày 06/04/1413.
Được sinh ra và lớn lên ở vùng quê có chiều dầy văn hóa ở đất kinh Bắc, từ nhỏ Đinh Dự đã say mê ca hát. Sớm trở thành người có biệt tài chí lớn trong hoạt động văn hóa. Theo thần phả ghi chép tại nhà thờ Ca công tại làng Lỗ Khê, năm 12 tuổi Đinh Dự về thăm quê hương đất tổ. Trong ngày chơi xuân đến trang Đông Cứu, huyện An Bình, phủ Thuận An nơi có thắng cảnh chùa Thiên Thai. Đinh Dự gặp cô gái tên là Đường Hoa Thiên Hải, có sắc đẹp và lại có tài đàn hát như mình. Hai người hợp ý tâm đầu, kết duyên và cùng nhau về Lỗ Khê sáng tạo ra Ca Trù.
Trong Ca Trù sử dụng nhiều thể văn chương, như thể phú, thể chuyện, thể ngâm, nhưng phổ biến vẫn là hát nói. Một chầu hát cần có một người chính- một đào nương (hay ca nương), sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp. Một kép nam chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát. Một quan viên đánh trống chầu chấm câu biểu lộ sự đắc ý tán thưởng bằng tiếng trống.
Không gian trình diễn Ca Trù phạm vi nhỏ. Có Đào hát ngồi ở chiếu, ở giữa hai quan viên và kép đàn ngồi chếch hai bên.
Hai vợ chồng ông luyện tập say mê và quyết định mở phường dạy ca trù. Khi ấy Đinh Dự mới 13 tuổi (tức là năm 1426).
Học trò theo học rất đông, không những người trong làng mà còn các vùng lân cận cũng đến theo học thầy.
Đối tượng phục vụ Ca Trù rất rộng: Vua, chúa, tướng lĩnh, binh sĩ nhà Lê trong các dịp mừng công, mừng thọ, mừng công danh, khao vọng của các quan. Hát giải sầu, giải bệnh cho gia đình vua, chúa. Truyền lời thỉnh cầu của dân làng đến các đấng thần linh. Các bậc vua chúa cũng lấy dòng nhạc này cúng trời đất, tổ tiên, thái miếu.
Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua, triệu mời hai vợ chồng ngài Đinh Dự về kinh đô ban thưởng. Thời gian sau hai vợ chồng đều lâm bệnh và mất. Trước khi mất ngài để lại bài thơ bày tỏ nỗi lòng tuy đi xa nhưng còn luyến tiếc với giáo phường, với quê hương khi gắn bó và truyền bá Ca Trù dân tộc.
Ngày 13 tháng 4 năm 1428 khi vợ chồng ngài Đinh Dự từ trần, vua triệu mời Quản giáp về kinh đô nhận mỹ tự “Sinh Tứ, Tự Điển” giao cho giáo phường lập đền, thờ phụng.
Năm Canh Thìn 1460 vua Lê Thánh Tông lên ngôi, xét công trạng và phong tặng Đinh Dự là “Thanh Xà Đại Vương” và phong cho vợ ông mỹ tự “Mãn Đường Hoa công chúa”. Vợ chồng Ngài là tổ sư được các giáo phường ca trù tạo tượng từ thời Lê nay vẫn được bảo tồn tại các nhà thờ
Tượng nhị vị Tổ sư nghệ thuật Ca trù tại đền thờ Ca công.
Như vậy cùng với Ca trù Lỗ Khê, Ca trù Đông Môn, làng Cung Chúc cũng là cái nơi có nghề đàn hát Ca trù từ xa xưa. Ca Trù và đền thờ Ca trù đã từng tồn tại và phát triển ở Kính Chúc xưa.Theo truyền ngôn, nghề hát Ca trù tại Kính Chúc cõuất xứ từ một cung phi trong phủ Chúa Trịnh. Tương truyền rằng bà Phạm Thị Sang (dân gian thường gọi là bà chúa Sang) là người tài giỏi, thông minh, đoan trang đẹp người đẹp nết, hát hay. Bà được chúa Trịnh Giang (1729-1740) tuyển vào phủ Chúa và được phong thứ phi. Bà được chúa yêu mến chiều chuộng.
Chúa Trịnh Giang vốn là người thích âm nhạc và văn chương. Năm Nhâm Tý 1732, ông cho chế lễ nhạc dùng trong Phủ đường để: “Tô điểm cho đời thái bình”. Ngày Chúa ra coi chầu, phường nhạc xếp hàng ở Phủ đường, cửa phủ mở, nhạc cử lên, các quan văn, võ bái lạy theo tiếng nhạc. Khi Chúa đi ra ngoài, phường nhạc chia nhau dẫn đường, tấu nhạc.
Sống trong phủ chúa giàu sang phú quý, bà Sang luôn tưởng nhớ quê nhà. Bà đã xin chúa Trịnh về quê, cho tạc tượng tổ nghề Ca trù và lập giáo phường, truyền dạy Ca trù cho dân. Âu cũng là giúp người dân quê hương bà có nghề hát kiếm sống.
Ngày nay, nói đến Ca trù của làng thì chỉ các cụ trên 80 tuổi mới biết, lớp trẻ hầu như không ai rõ.
Cụ Vũ Hoàng Sơn năm nay 93 tuổi, người đã có nhiều năm công tác trong ngành Văn hóa và từng hoạt động trong lĩnh vực giáo dục của thành phố. Khi chúng tôi hỏi cụ về đến thờ Ca Công và Ca Trù, cụ rành rẽ kể từng chi tiết về các kép đàn và ca nương như cụ Ngô Văn Tặng, con trai cụ là Ngô Phương Điếm đều là kép đàn. Các ca nương như cô Hân, cô Hấn, Cụ Thủ Trăn – Thủ từ coi sóc đền Ca công của làng. Dịp lễ lớn giáo phường Ca trù Kính Chúc thường rước các quan trên huyện về thưởng lãm Ca Trù.
Trên chặng đường tồn tại, với nhận thức xã hội hạn chế, có giai đoạn đàn - hát Ca Trù bị cấm. Vì thế đền Ca công ở Kính Chúc xuống cấp, hư hỏng. Nghề hát Ca Trù dần bị mai một, tượng thờ và các đồ đạc thờ tự khác được chuyển cất giữ trong dân nay đã bị thất lạc không còn. Vị trí đền Ca Công của làng ngày xưa chính là nhà văn hóa của thôn 7 bây giờ. Vị trí rất đẹp nằm trung tâm trục chính đường làng Cung Chúc.
Với đường lối Nghị quyết Trung ương 5 (khóa 8) của Đảng năm 1985 về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” các di tích văn hóa vật thể và phi vật thể tại các địa phương dần được khôi phục, phục dựng. Văn hóa truyền thống của cha ông được nhân dân phục hưng mạnh mẽ. Với những giá trị văn hóa đặc sắc, môn nghệ thuật Ca Trù mà UNESCO công nhận cần được bảo tồn, tránh việc thất truyền, chúng tôi mong rằng: Các cơ quan văn hóa có thẩm quyền và chính quyền địa phương cần quan tâm, có phương án nghiên cứu khôi phục lại nghệ thuật Ca trù và đền thờ Ca công tại làng Cung Chúc. Đây là việc làm cần thiết nhằm bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hóa - lịch sử truyền thống đã từng tồn tại và phát triển trên mảnh đất linh thiêng này. Điều này hoàn toàn phù hợp với đường lối của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và xây dựng con người Việt Nam đáp ứng điều kiện mới trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Biên soạn: Cử nhân Vũ Bá Xịnh,
thôn Cung Chúc, xã Trung Lập, Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
ĐT: 0936768161.
Số TK ngân hàng Agribank: Vũ Bá Xịnh – 2125205088470.