Hải Phòng học

http://haiphonghoc.vn


Đình Dư Hàng và phường Dư Hàng Kênh quận Lê Chân

Từ trước công nguyên, vùng đất phường Dư Hàng Kênh là hệ thống cồn cát, bãi đầm lầy dọc ven biển năn lác hoang vu, nằm ở phía tây nam tỉnh Đông (Hải Dương ngày nay).

Từ trước công nguyên, vùng đất phường Dư Hàng Kênh là hệ thống cồn cát, bãi đầm lầy dọc ven biển năn lác hoang vu, nằm ở phía tây nam tỉnh Đông (Hải Dương ngày nay).

Tại vùng bãi lau sậy ven sông Lạch Tray, thời xa xưa chỉ có người thập phương lưu lạc tá túc làm nghề đánh cá và hái lượm sản vật tự nhiên. Riêng dẻo đất Dư Hàng Kênh khi ấy là vị trí cao nhất của cả vùng, chưa có dân cư sinh sống. Vào thế kỷ thứ X, vùng đầm bãi này mới đủ độ cứng để hình thành đất ở.

* Năm 938, Ngô Quyền từ Thanh Hóa kéo quân ra ven sông Cấm, sông Lạch Tray, lập đại bản doanh ở Lương Xâm và đóng quân khắp vùng đón đánh quân Nam Hán.

Sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, một số binh lính ở lại khai khẩn đất đai lập nghiệp, dân cư khắp nơi tụ dần về đông đúc.

Khoảng năm 1215 đến năm 1246, vùng đất này hình thành làng mạc gọi là trang ấp Kênh Dương thuộc huyện Nghi Dương, tỉnh Đông.

Đến thời nhà Minh đô hộ, dân làng phiêu tán khắp nơi, đồng ruộng bỏ hoang, cửi canh dẹp bỏ. Năm 1427 có cụ Nguyễn Khâm về thôn Đoài tái lập trang Kênh Dương và được đổi tên thành làng Hàng Kênh, có nghĩa là thuyền bơi trên kênh lạch, tên làng chỉ ra vùng đất Hàng Kênh có nhiều mương lạch, dân cư đi làm đồng và thu hoạch về bằng thuyền bè.

Năm Quang Bảo thứ 4 (Đinh Tỵ 1557), nhân dịp triều đình nhà Mạc ra lệnh sửa địa bạ, chức dịch thôn Đoài, muốn phân chia lại đất, tách khỏi Hàng Kênh, đến khoảng năm 1564 thì làng được chia tách. Thôn Đoài và một phần thôn Nam tách ra thêm một làng lấy tên là Dư Hàng, các thôn còn lại vẫn giữ nguyên tên cũ là làng Hàng Kênh, đều thuộc tổng Đông Khê huyện An Dương, phủ Kinh Môn. Làng Hàng Kênh được chia đình Nhân Thọ và tượng Thánh ở thôn Bắc, làng Dư Hàng được chia chùa Dư Hàng và cỗ kiệu Long cống, còn ngôi Miếu không chia được thì sử dụng chung, từ đấy gọi là Miếu Hai Xã.

Thời Lê Trung Hưng, khoảng năm Kỷ Tỵ 1569, do không còn Đình và Chùa, làng Hàng Kênh xây dựng Chùa Hàng Kênh, làng Dư Hàng xây dựng đình Dư hàng.

Đình Dư Hàng ban đầu được làm theo bố cục kiểu chữ Đinh tọa hướng đông, mặt quay hướng tây ghé Nam, có chiều sâu 23,4 thước, ngang rộng 7 gian. Gian giữa rộng 10 thước, các gian còn lại rộng 9,4 thước, cột tiền gian giữa cao 7,3. Khi ấy đình Dư Hàng mới xây dựng và đình Nhân Thọ đều thờ Phúc thần Vũ Chí Thắng làm Thành Hoàng.

Năm Tự Đức thứ 6 (1853), nhà Vua sắc phong Đức vương Ngô Quyền là Thành hoàng 17 làng thuộc lục tổng có dấu tích xưa của Ngài, trong đó có Hàng Kênh và Dư Hàng. Từ đấy đình Hàng Kênh và đình Dư Hàng thờ Thành hoàng Ngô Vương, Phúc thần Vũ Chí Thắng được chuyển về Từ Vũ để thờ.

Năm 1907-1908, quan huyện Tứ Kỳ Dương Văn Sách và cụ chánh tổng Phạm Khắc Tịch người làng, tổ chức quyên góp dân làng xây dựng lại đình Dư Hàng.

Đình Dư Hàng được phỏng theo nguyên mẫu của đình Hàng Kênh (xây dựng năm 1851-1854). Đình làm lại trên cơ sở hướng và nền đình cũ, nhưng được cải chuyển bố cục từ chữ Đinh sang kiểu dáng mang hình chữ Công, nền đình nâng cao thêm một thước, làm thêm ba gian hậu cung và theo kích thước mới. Cột quân gian giữa tiền bái đình cao 8 thước. Bậc thềm lên đình thay toàn bộ bằng đá cao 2 thước, mỗi bậc 1 thước. Các chân tảng đá nâng cao thêm 5 tấc. Bên ngoài trước đình, hai bên sân xây dựng mới hai nhà tả vu, hữu vu, cùng với tường hoa phía trước là nghi môn theo kiểu cột đồng trụ, tăng thêm vẻ uy nghi bề thế của ngôi Đình.

Về trang trí trên các mảng chạm khắc của Đình, đã thừa kế nhuần nhuyễn nghệ thuật kiến trúc, mỹ thuật cổ truyền của dân tộc từ cuối đời Lê Trung hưng đến đầu thời Nguyễn nên tinh xảo và đẹp đẽ hơn. Hầu như toàn bộ những hình thức trang trí trên kiến trúc 7 gian tiền đình đều được dàn trải các mảng chạm khắc bong kênh hình, mang nội dung phong phú. Hàng chục loại hoa lá, cỏ cây thiêng đang nở hoa kết trái, làm nền cho các loại chim, thú 4 chân sum vầy xung quanh, những linh vật được dân gian xếp vào bộ tứ linh như Long, Ly, Quy, Phượng. Với đình Dư Hàng, các nghệ nhân dân gian đã tạo ra trên kiến trúc gần 200 mảnh điêu khắc chủ đề rồng mây chiếm đại đa số, 2/3 là rồng được đặc tả mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII, thời kỳ nở rộ của điêu khắc dân gian Việt Nam. Phần nhiều rồng được đặc tả bộ đao mác khúc đuôi cùng lông đuôi cuộn tròn, mô tip thường gặp là "cá chép hóa rồng". Đặc biệt có những hình rồng hóa từ tùng, cúc, trúc, mai, sen với những nét chạm cầu kỳ tỉ mẩn từng chi tiết cây cỏ hoa lá kết hợp với phong cách khoáng đạt, khái quát mang giá trị nghệ thuật cao. Khi ấy đình Dư hàng là một trong số ít ngôi đình tiêu biểu của thành phố Hải Phòng.

Đến năm 1986, trải qua thời gian và hai cuộc chiến tranh tàn phá, Đình xuống cấp nghiêm trọng. Dân tứ xứ đến lấn chiếm đất Đình cả khu vực I và II đồng thời dỡ cả gỗ Đình về sử dụng.

Các già làng đứng đầu là cụ Nguyễn Thị Phúc đầu đơn kiến nghị đến Mặt trận tổ quốc xã, được sự ủng hộ, Đảng ủy xã đã tổ chức cuộc họp, thể hiện quyết tâm giữ lại đình báo cáo thành phố. Ngày 6-9-1989 Giám đốc Sở VHTT thành phố Hải Phòng đã ký thông báo số 07/TB-VH “Chấp thuận cho UBND xã Dư Hàng Kênh được tổ chức tu bổ lại di tích văn hóa lịch sử Đình Dư Hàng”.

Cụ Nguyễn Thị Phúc dẫn đầu đoàn dân làng đi quyên cúng khắp mọi miền đất nước, được miễn tiền tàu xe. Trong vòng 3 năm từ 1990-1992, các cụ và dân làng đã quyên cúng các khoản đóng góp bằng tiền, bằng hiện vật và ngày công lao động của cả xã để phục dựng đình từ mọi nguồn quyên góp quy ra bằng 2 tỷ 510 triệu. Đình đã được phục dụng và là điểm đến tâm linh cho cả dân làng thờ đức Thánh Ngô Vương.

Ban Quản lý đình cùng dân làng đã khôi phục các hoạt động tín ngưỡng và phong tục truyền thống tốt đẹp cổ xưa đang dần mai một. Đình đã tổ chức được 4 đội tế của các họ, tham gia hội thi tế tại Văn miếu Quốc Tử Giám được Bộ Văn hóa đánh giá cao. Hàng năm, xuân thu nhị kỳ làng tổ chức tế lễ, ngày kỵ nhật Thánh hóa, làng mở lễ hội truyền thống như cổ xưa, những năm chẵn hoặc có sự lệ, làng tổ chức lễ trọng rước kiệu Thánh quanh địa bàn, dân làng hồ hởi cung nghinh.

Năm 2008, kiện toàn Ban Quản lý di tích, ông Phạm Quốc Chí làm Trưởng ban, ông Dương Anh Dũng là Phó ban, làm thủ tục lập dự án trùng tu di tích. UBND thành phố đã phê duyệt dự án tại Quyết định số 1909/QĐ-UB ngày 19-11-2010 giao cho Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch làm chủ đầu tư. Tổng kinh phí theo dự án ngân sách nhà nước cấp là 34,014 tỷ đồng. Đình đã được hạ giải phục dựng lại như xưa, các cấu kiện bằng gỗ lim hư hỏng được thay thế mới, các mảng trạm khắc được chế tác mới bằng thủ công. Sau khi thi công khối lượng hoàn thành trên 20 tỷ thì công trình cơ bản hoàn thành vào năm 2014. Dân làng đã tiếp nhận ngôi Đình sử dụng thờ phụng Thành Hoàng làng như truyền thống phong tục cổ xưa.

Đến ngày nay đình Dư Hàng vẫn lưu giữ được nhiều tài sản quý, tiêu biểu là:

1. Pho tượng của Ngô Vương Quyền chế tác khoảng thế kỷ XVI.

2. Một cỗ Kiệu bát cống tương truyền có từ thời nhà Mạc.

3. Nhiều cuốn thư, đại tự, câu đối cổ thếp bạc phủ vàng ròng có tuổi gần 400 năm.

4. Đặc biệt đình Hàng còn lưu giữ hòm sắc luân lưu của cả tổng Đông Khê :

Gồm 7 sắc phong gồm (có hai bản sao cổ):

- Sắc chỉ ngày 15-6 của Vua Gia Long 9 (1811) ban cho xã Lương Xâm tiếp tục thờ Ngô Quyền là thành Hoàng.(bản sao).

- Sắc chỉ ngày 10-1 của Vua Tự Đức 6 (1853) ban cho lục tổng tiếp tục thờ Ngô Quyền là Thành Hoàng chung,

- Sắc chỉ ngày 24-11 của Vua Tự Đức 33 (1880) ban cho lục tổng tiếp tục thờ Ngô Quyền là Thành Hoàng chung. (bản sao của huyện An Dương)

- Sắc chỉ ngày 24-11 của Vua Tự Đức 33 (1880) ban cho 17 xã tiếp tục thờ Ngô Quyền là Thành Hoàng chung,

- Sắc chỉ ngày 18-11 của Vua Thành Thái nguyên niên (1889) ban sắc riêng cho xã Hàng Kênh tiếp tục thờ Ngô Quyền là Thành Hoàng.

- Sắc chỉ ngày 18-11 của Vua Duy Tân 3 (1910) ban cho xã Hàng Kênh tiếp tục thờ Ngô Quyền và có nhắc đến Điện tiền chỉ huy sứ (Vũ Chí Thắng). “Linh phù bản thổ phúc thần, tiền đặc tứ Chỉ huy sứ võ công chi thần. Tiết kinh ban cấp.”.

- Sắc chỉ ngày 24-7 của Vua Khải Định thứ 9 (1924) ban cho xã Hàng Kênh tiếp tục thờ Ngô Quyền là Thành Hoàng.

5- Bản Đình có nhà bia bên phải sân Đình mới xây năm 1991 còn bốn văn bia nguyên vẹn được chuyển từ vị trí Văn chỉ cũ của đình về.

a- Bia văn “Bản Huyện văn thuộc bia ký” thuộc huyện An Dương, Lập vào tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 25 (1764). (Bia hàng Huyện).

b- Bia hội Tư văn Tư võ trong tổng Đông Khê, huyện An Dương, phủ Kinh Môn. Bia lập ngày đẹp năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783).(Bia hàng Tổng

c- Hậu phối bia ký (Tái lập năm 1828)

Xã Dư Hàng, Huyện An Dương Phủ Kinh Môn. Quan viên Hương lão của làng có công trùng tu Đình đều được căn cứ vào số tiền đóng góp được bản Xã ghi chép danh tính để thờ hậu phối.

d- Bia ghi chép việc Làng (Lập sau khi trùng tu Đình năm 1909. Bia dựng ngày 22-4- Duy Tân thứ 6 (1912) . Nội dung bia ghi chép việc xây dựng lại Đình làng Dư Hàng)

e- Bản xã bia ký (Lập sau khi trùng tu Đình năm 1909. Bia dựng ngày 02-6- Duy Tân thứ 8 (1914). Bia ghi chép danh tính và việc đóng góp tiền của dân làng xây dựng lại đình Dư Hàng.

Đình Dư Hàng là ngôi Đình đã gắn bó với dân làng nhiều thế hệ, thờ Thành Hoàng phù trợ cho dân làng bản hạt. Ngày nay ngôi đình vẫn duy trì và phát huy được các hoạt động truyền thống, mang đậm đà bản sắc dân tộc.

Đình Dư Hàng Phường Dư Hàng Kênh là ngôi đình cổ kính có tuối gần 500 năm là di tích tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc bộ. Đình được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng nên mang đậm dấu ấn nghệ thuật đặc sắc nhất cả vùng, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và sinh hoạt văn hóa, tâm linh của làng quê xưa. Tất cả di sản của tiền nhân, cả vật thể lẫn phi vật thể lưu truyền lại, đã tạo nên ngôi Đình làng linh thiêng tố hảo, có bề dày lịch sử, đóng góp thêm những giá trị đặc sắc cho hệ thống kiến trúc Đình Miếu truyền thống được khởi dựng vào đầu thế kỉ XV của thành phố Hải Phòng.

 

 

Dương Anh Dũng –CLB HPH
Số ĐT 0947831589

Tác giả: admin

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây