NGƯỜI CHỈ HUY BỘ ĐỘI GIẢI PHÓNG QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
- Thứ tư - 18/12/2024 22:21
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Mai Năng tên thật là Tạ Văn Thiều. Ông sinh ngày 4-3-1930 ở thôn Xuân Dương, xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng. Bố mất năm Thiều lên bẩy tuổi. Người mẹ hiền góa bụa, tần tảo lần hồi mò cua, bắt ốc, nuôi hai chị em Thiều khôn lớn. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, 15 tuổi rưỡi, anh tham gia Đoàn Thanh niên Cứu quốc
Đào Bá Đức
Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng TĐ-KT TP. Hải Phòng
Mai Năng tên thật là Tạ Văn Thiều. Ông sinh ngày 4-3-1930 ở thôn Xuân Dương, xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng. Bố mất năm Thiều lên bẩy tuổi. Người mẹ hiền góa bụa, tần tảo lần hồi mò cua, bắt ốc, nuôi hai chị em Thiều khôn lớn. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, 15 tuổi rưỡi, anh tham gia Đoàn Thanh niên Cứu quốc. Năm 1947, anh làm chiến sỹ quân báo xã và lấy tên bí danh là Mai Năng. Năm 1950, cấp trên điều động Mai Năng về đơn vị quân báo huyện đội Kiến Thụy. Năm 1951, anh được cấp trên điều lên Đội quân báo tỉnh đội Kiến An. Nhiệm vụ đầu tiên, đơn vị phân công Mai Năng làm chiến sỹ nuôi quân. Sau thấy Mai Năng hoạt bát, nhanh nhẹn, chỉ huy bố trí anh làm Chiến sỹ thông tin nội, ngoại tuyến. Được gần một năm, anh chuyển sang làm Chiến sỹ trinh sát, chuyên điều tra, nắm tình hình chuẩn bị cho các trận đánh, của bộ đội địa phương tỉnh đội Kiến An.
Ngày 7-3-1954, Bộ đội địa phương tỉnh Kiến An tổ chức tập kích sân bay Cát Bi, đốt cháy 59 máy bay của quân Pháp. Đây là trận đánh phối hợp tuyệt đẹp với chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau trận đánh sân bay Cát Bi, Bác Hồ đã gửi thư khen và tặng đơn vị tham gia trận đánh Cát Bi, danh hiệu “Đoàn dũng sỹ Cát Bi”. Riêng Mai Năng được đơn vị bình chọn là dũng sỹ số 1 của trận đánh.
Kết thúc đánh sân bay Cát Bi, cấp trên điều đội trưởng Mai Năng về tăng cường lực lượng quân sự, tiếp quản thủ đô Hà Nội. Tháng 11-1954, cấp trên lại điều anh trở về tiếp quản Hải Phòng. Mai Năng lần lượt giữ các chức vụ Đội trưởng trinh sát, Đại đội phó, Đại đội trưởng trinh sát Quân khu 3. Năm 1956, Mai Năng đang trên đường sang Liên xô học, thì nước bạn có diễn biến xét lại. Anh cùng cả đoàn quay trở về Quân khu 3 công tác.
Năm 1961, Mai Năng được điều về làm Chính trị viên tàu săn ngầm Bộ Tư lệnh Hải Quân. Thấy việc canh gác trên tàu của bộ đội lơ là, mất cảnh giác, để nhắc nhở cán bộ, chiến sỹ, Chính trị viên Mai Năng cho người xuống nước, buộc gạch vào chân vịt tàu, rồi nổi còi báo động. Sau lần ấy, công tác canh gác, tuần tra mới được chấn chỉnh và cũng là gợi ý cho cấp trên thành lập lực lượng đặc công nước của Hải Quân. Năm 1963, Bộ Tư lệnh Hải quân, giao cho Mai Năng tuyển chọn chín mươi cán bộ, chiến sỹ có sức khỏe, tác phong nhanh nhẹn, tháo vát trong lực lượng Hải Quân đưa họ về trung tâm huấn luyện, đào tạo thành đặc công nước. Mới đầu, các chiến sỹ được huấn luyện trong bể bơi, sau khi thuần thục mới cho họ ra bơi ở sông và bơi ở biển. Người lính bơi từ Đồ Sơn ra đảo Cát Bà và ngược lại, bơi liên tục hai mươi giờ dưới nước. Còn khi tiếp cận mục tiêu, để không bị phát hiện, người lính đặc công phải bơi ngầm dưới mặt nước. Thời gian tập bơi ngầm dưới nước là khó nhất. Đi ngầm dưới nước, phải luyện hơi thở và có ống thở. Ban đầu bộ đội ta ngậm ống tre, nhưng ống tre hay bị dập nát. Sau đó dùng ống thủy tinh, nhưng ống thủy tinh bị sóng biển dập vỡ. Cuối cùng lính ta dùng ống ni non làm ống thở, bơi ngầm dưới nước cả tiếng đồng hồ, không cần ngoi lên mặt nước để thở. Huấn luyện sáu tháng, đơn vị tổ chức diễn tập đánh thử, đạt kết quả rất tốt. Sau đó, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Hải quân chọn và điều năm mươi cán bộ, chiến sỹ trong chín mươi người đã được huấn luyện, sang làm nòng cốt cho Đoàn 8 Hải quân. Đoàn 8 Hải quân, chính là tiền thân của Lữ đoàn Hải quân 126 ngày nay. Trong hai năm 1964 và 1965, Đoàn 8 Hải quân đã huấn luyện bốn đội, mỗi đội 120 cán bộ, chiến sỹ đặc công nước, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Năm 1966, để có thực tế huấn luyện bộ đội, Mai Năng xin cấp trên cho vào chiến trường chiến đấu. Ngày 12-10-1966, Mai Năng vào tới Quảng Trị, cũng là lúc Bộ Quốc phòng có quyết định thành lập Lữ đoàn 126 Hải quân, gồm 12 đội. Mai Năng được giao làm Đội trưởng Đội 1. Hai tháng sau, chỉ huy điều Mai Năng về làm Trợ lý tham mưu Lữ đoàn.
Từ năm 1969 đến năm 1972, Mai Năng chỉ huy bộ đội chiến đấu mấy chục trận. Ông đã hai lần bị thương. Có những kỷ niệm mà ông nhớ mãi. Đó là, đêm ngày 6-9-1969, ông chỉ huy đơn vị đánh đắm chiếc tàu chở dầu trọng tải 1,5 vạn tấn của Mỹ ở cảng Cửa Việt. Dầu trên tàu cháy đỏ rực cả một góc trời. Đầu tháng 7-1969, ông chỉ huy đơn vị đánh cầu Đông Hà. Khi bộ đội ta đụng địch tổ chức phục kích, ông lệnh cho chiến sỹ dùng bộc phá kích nổ, tiêu diệt 7 tên lính ngụy. Trận đánh cầu bị lộ, Mai Năng cho bộ đội chuyển sang đánh tàu ở cảng Cửa Việt. Khối bộc phá 240 ki-lô-gam dùng để đánh tàu, được chia nhỏ thành 12 quả bộc phá, mỗi quả 20 ki-lô-gam. Trận ấy, ta đánh chìm và phá hủy 12 tàu, tiêu diệt hàng trăm tên địch tại cảng Cửa Việt. Sau trận đánh, Lữ đoàn 126 Hải quân và cá nhân Mai Năng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Chiến dịch xuân hè năm 1972 vô cùng ác liệt, dài chưa từng có, khó chưa từng thấy. Một lần Mai Năng lên báo cáo với Tư lệnh chiến dịch, Tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh chiến dịch khen ngợi Đoàn 126 đặc công đánh giỏi, gây cho địch nhiều thiệt hại ở cảng Cửa Việt và các kho tàng, hậu cứ của địch.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lực lượng đặc công nước tinh nhuệ của bộ đội Hải quân Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và lập những chiến công lừng lẫy. Đánh chìm và phá hủy trên ba ngàn tàu chiến và tàu vận tải. Đốt cháy gần ba trăm triệu lít xăng dầu, phá hủy hàng chục vạn tấn bom đạn địch. Trong chiến công chung đó, có sự đóng góp công sức, trí tuệ, sự hy sinh thầm lặng của Mai Lăng
Tháng 7-1973, cấp trên điều Mai Năng ra Bắc, về làm Đoàn trưởng Đoàn 8 Hải quân. Ông lại tiếp tục chỉ huy huấn luyện bộ đội đặc công nước. Cuối tháng 3-1975, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy giải phóng quần đảo Trường Sa.
Những ngày cuối tháng 3-1975, cuộc tổng tấn công mùa xuân năm 1975 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Các cánh quân chủ lực của ta chia làm ba mũi, thần tốc hành quân tiến về Sài Gòn.
Ngày 24-3-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mật lệnh cho Bộ Tư lệnh Hải quân, chuẩn bị lực lượng, khẩn trương giải phóng quần đảo Trường Sa.
Trung tá Mai năng, Đoàn trưởng Đoàn 8 Đặc công nước, được Bộ Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ chỉ huy bộ đội ra giải phóng quần đảo Trường Sa. Sau ba ngày khẩn trương chuẩn bị, ngày 27-3-1975, Mai Năng cùng 200 cán bộ, chiến sỹ, được lực chọn trong cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8, bí mật lên 7 chiếc xe tải, hành quân vào miền Trung. Mục đích chuyến hành quân này, chỉ có Đoàn trưởng, Chính ủy Đoàn 8 biết.
Ngày 5-4-1975, Mai Năng và toàn thể cán bộ, chiến sỹ đã đến thành phố Đà Nẵng, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tư lệnh Hải quân. Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Văn Thái có mặt ở Đà Nẵng từ trước.
Theo phương án tác chiến ban đầu, do Phòng Tác chiến Bộ Tư lệnh Hải quân lên kế hoạch, Bộ đội đặc công Đoàn 8 có nhiệm vụ cùng một lúc tổ chức chiến đấu, giải phóng 6 đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Lúc thảo luận, nhìn trên sa bàn và hải đồ, Đoàn trưởng Mai Năng nhận thấy, khoảng cách các đảo cách nhau rất xa. Từ đảo Song Tử Tây đến đảo An Bang là 124 hải lý, (249,4 ki-lô-mét). Từ Đà Nẵng ra đảo Song Tử Tây là 480 hải lý, (883 ki-lô-mét). Trong khi đó, lực lượng của ta chỉ có ba chiếc tàu và 200 cán bộ, chiến sỹ, nếu tổ chức đánh đồng loạt cả 6 đảo, với khoảng cách rất xa như vậy. Phương án tác chiến, cùng một lúc giải phóng 6 đảo là không khả thi. Mai Năng liền báo cáo và đề nghị với Phó Tư lệnh Hải Quân Hoàng Văn Thái, cho thay đổi phương án tác chiến, ông trình bày:
- Thứ nhất là, theo tôi, quân ta nên tập trung lực lượng giải phóng từng đảo một. Ta cho bộ đội đánh trước một đảo để rút kinh nghiệm, sau đó mới triển khai đánh tiếp, đánh theo kiểu cuốn chiếu.
- Thứ hai là, vẫn thực hiện phương thức tác chiến mật tập: Cho bộ đội đặc công bí mật, bất ngờ đổ bộ lên đảo.
- Thứ ba là, tác chiến theo cách đánh trinh sát vũ trang. Kinh nghiệm ở các trận đặc công đã đánh từ trước, như đánh tàu ở cảng Cửa Việt, đánh tàu trên sông Lòng Tàu, quân cảng Sài Gòn, kho bom Long Thành..., quân ta phải trinh sát điều nghiên trước rồi mới đánh. Phương châm tác chiến của đặc công là “Mắt phải thấy, tai phải nghe, tay phải sờ” thì đánh mới hiệu quả cao. Song lần này, do thời gian gấp, nên ta phải bỏ qua giai đoạn điều nghiên trinh sát trước. Tác chiến theo cách trinh sát vũ trang: “Trinh đến đâu, sát (đánh) đến đó”.
Những ý kiến đề xuất của Đoàn trưởng Mai Năng đã được Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Văn Thái, người chỉ huy cao nhất ở tiền phương của Bộ Tư lệnh Hải quân duyệt và thông qua. Phó Tư lệnh Hoàng Văn Thái bắt tay Đoàn trưởng Mai Năng, ông nói:
- Thay mặt Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Hải Quân, tôi chúc các đồng chí và toàn thể cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8, lên đường chiến đấu giành thắng lợi, hoàn thành xuất sắc mệnh lệnh của Tổ quốc giao cho.
Sau khi nghe Đoàn trưởng Mai Năng phổ biến, quán triệt chỉ thị của cấp trên, giao cho đơn vị có nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa, toàn thể cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị, ai nấy đều vô cùng phấn khởi và tự hào, vì được vinh dự tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đoàn trưởng Mai Năng thống nhất với Chính ủy Đoàn 8 ra trận với khẩu hiệu: “Xa mấy cũng đi, khó mấy cũng đánh, nhất định đánh thắng trận đầu và giải phóng quần đảo Trường Sa, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc giữa trùng khơi biển Đông”.
Ngày 10-4-1975, ba tàu chiến của hải quân ta, ngụy trang giả là tàu đánh cá của Phi-lít-pin, chở hai trăm cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8 Đặc công, lặng lẽ rời cảng Đà nẵng tiến ra quần đảo Trường Sa. Khi đoàn tàu của ta, vừa chạy ra vùng biển quốc tế, thì gặp một phi đội máy bay phản lực của Mỹ. Thấy có mấy chiếc tàu lạ, máy bay địch lượn đi, lượn lại, quần đảo dữ dội trên bầu trời vùng biển nơi đoàn tàu của ta đang di chuyển. Để đánh lạc hướng máy bay Mỹ, Đoàn trưởng Mai Năng ra lệnh cho ba chiếc tàu của ta quay mũi tàu, chạy về hướng đảo Hải Nam, Trung quốc. Hơn nửa giờ đồng hồ quần đảo, theo dõi hải trình của ba chiếc tầu lạ, thấy không có gì khả nghi, mấy chiếc máy bay phản lực Mỹ mới bay đi. Lúc ấy, Mai Năng mới cho tầu đổi hướng, chạy về phía đảo Song Tử Tây thuộc quần đảo Trường Sa.
Chập tối ngày 13-4-1975, đoàn tàu của ta còn cách đảo Song Tử Tây 5 hải lý, Mai Năng liền cho dừng lại để quan sát. Đến 8 giờ tối, ông cho ba chiếc tàu chiến tiến vào gần đảo. Khi còn cách đảo 3 ki-lô-mét, Đoàn trưởng Mai Năng mới ra lệnh cho bộ đội xuống nước. Quân ta chia làm ba mũi, theo ba hướng, mang khí tài, vũ khí đạn dược, bơi vào bờ đánh chiếm đảo. Bộ đội vừa xuống nước được mươi phút, chợt có công điện hỏa tốc của Bộ Tư lệnh Hải quân, gửi cho Đoàn trưởng Mai Năng, yêu cầu dừng ngay việc tấn công lên đảo. Trong tình thế ấy, Đoàn trưởng Mai Năng chỉ được phép chọn một trong hai tình huống. Một là chấp hành mệnh lệnh cấp trên, hai là tiếp tục cho bộ đội tiến quân lên đánh chiếm đảo. Với tính quyết đoán, ông suy nghĩ, đằng nào ta cũng phải nổ súng giải phóng quần đảo Trường Sa. Nếu dừng lại, quân ta vừa lỡ thời cơ vừa dễ bị lộ, việc đánh tiếp sau này sẽ gặp khó khăn. Sau khi hội ý nhanh với Ban chỉ huy Đoàn, Mai Năng quyết định vẫn tiếp tục cho bộ đội nổ súng đánh chiếm, giải phóng đảo. Ông liền điện đàm về Bộ Tư lệnh Hải quân:
- Bộ đội đã xuống nước hết rồi, không thể gọi lại được nữa. Báo cáo Bộ Tư lệnh, chúng tôi quyết định nổ súng giải phóng đảo Song Tử Tây.
Trả lời xong, ông cho tắt hết máy điện đàm 15Woát, chỉ cho sử dụng máy điện đàm cầm tay tầm ngắn, để tránh bị lộ. Khi ba mũi quân ta tiến lên đảo, địch cố thủ trên đảo nổ súng chống trả quyết liệt. Hỏa lực địch ở trên đảo rất mạnh, pháo 75 mi-li-mét, súng máy phòng không 12,7 mi-li-mét, súng phóng lựu của chúng bắn ra dữ dội. Dưới ánh sáng soi rõ như ban ngày của pháo sáng, cả ba mũi chiến đấu của quân ta không thể nào tiến lên được. Thấy vậy, đoàn trưởng Mai Năng liền ra lệnh cho pháo 100 mi-li-mét trên ba chiếc tàu chiến của ta đồng loạt nổ súng, yểm trợ cho bộ binh đánh chiếm đảo. Sau mấy loạt đạn pháo 100 mi-li-mét của ta, binh lính địch trên đảo rất hoang mang sợ hãi. Nhất là nghe được tiếng hô chỉ huy, của Đoàn trưởng Mai Năng vang trong máy bộ đàm. Tên Trung tá ngụy, Chỉ huy đảo bèn ra lệnh cho binh lính:
- Các chiến hữu ơi, lực lượng tấn công lên đảo là quân của Bắc Việt rồi. Bây giờ ta đầu hàng thì sống, cố tình chống cự thì chết. Tôi yêu cầu các chiến hữu buông súng đầu hàng quân đội Bắc Việt.
Nghe lệnh của Chỉ huy đảo, tất cả sỹ quan và lính ngụy trên đảo Song Tử Tây vội vàng gương cờ trắng, buông súng đầu hàng.
Lên đảo, việc đầu tiên Mai Năng cho triển khai ngay lực lượng và vũ khí phòng thủ trên đảo. Việc thứ hai, ông điều một chiếc tàu chở toàn bộ sỹ quan, binh lính ngụy đã đầu hàng về cảng Đà nẵng. Đồng thời ông cho mở máy điện đàm 15Woát, báo cáo tình hình về Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Hải quân. Mất liên lạc với Đoàn 8 đặc công gần hai tiếng đồng hồ, ở Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Hải quân, ai cũng lo lắng, bồn chồn, không hiểu tình hình ở đảo Song Tử Tây diễn biến như thế nào. Khi nghe Mai Năng báo cáo quân ta đã giải phóng đảo Song Tử Tây. Mọi người ở sở chỉ huy bật đứng lên vỗ tay, reo hò mừng rỡ. Tư lệnh Hải quân biểu dương, hoan nghênh, chúc mừng chiến công của cán bộ, chiến sỹ đoàn 8. Ông yêu cầu đơn vị tiếp tục triển khai chiến đấu, giải phóng tiếp năm hòn đảo còn lại ở quần đảo Trường Sa.
Ngày 25-4-1975, Mai Năng tiếp tục chỉ huy bộ đội, lần lượt đánh chiếm đảo Sơn Ca, Đảo Sinh Tồn, đảo An Bang, đảo Trường Sa lớn, đảo Nam Yết. Nhìn thấy tầu chiến của ta treo cờ đỏ sao vàng và cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp cận đảo, chỉ huy và binh lính Ngụy vội vàng bỏ đảo, kéo nhau xuống tàu, tháo chạy.
Ngày 29-4-1975, trước một ngày năm cánh quân của ta tiến vào Sài Gòn, sáu đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, đã được hoàn toàn giải phóng.
Thành công của chiến dịch giải phóng quần đảo Trường Sa, là sự chỉ đạo sáng suốt của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư lệnh Hải Quân và tinh thần chiến đấu dũng cảm của cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8 Đặc công. Trong đó, có sự đóng góp không nhỏ của Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Mai Năng. Tính quyết đoán và sáng tạo của người chỉ huy trận đánh, đã giúp cho quân ta giành thắng lợi. Việc giải phóng quần đảo Trường Sa, có ý nghĩa cực kỳ to lớn là giải phóng vùng biển rộng lớn, giầu tài nguyên, tạo ra khả năng phòng thủ từ xa, bảo vệ biên cương của tổ quốc.
Sau khi giải phóng quần đảo Trường Sa, giữa tháng 5-1975, ông được Bộ Quốc phòng cử đi học tập ở Liên Xô. Hai năm sau, Mai Năng về nước, tham gia chiến đấu ở mặt trận Tây Nam. Năm 1979, ông tham gia chỉ huy bộ đội hải quân, chiến đấu đánh chiếm cảng Cô-kông, cảng Công-pông-xom, cảng Xi-ha-nuc-vin và giải phóng thủ đô Phnôm-pênh.
Dù Thiếu tướng Mai Năng vận bộ quân phục nhà binh, trên ngực ông lấp lánh huân huy chương hay mặc bộ quần áo bà ba dân dã, khuôn mặt ông lúc nào trông cũng hiền từ, đôn hậu, cởi mở. Ánh mắt, nụ cười, giọng nói chậm rãi, khúc triết của ông, gieo vào lòng mọi người đối diện sự thân thiện, tin cậy. Từ khi về hưu, năm nào cũng có nhiều đoàn thể, trường học, cơ quan, mời ông đến nói chuyện về cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Chuyện ông kể là trận đánh sân bay Cát Bi, chiến đấu đánh tàu chiến ở cảng Cửa Việt và nhất là chuyện ông trực tiếp chỉ huy lực lượng đặc công giải phóng quần đảo Trường Sa cuối tháng 4 năm 1975. Mặc dù Thiếu tướng Mai Năng đã về với thế giới người hiền, nhưng hôm nay, chủ quyền biển, đảo thiêng liêng vẫn sừng sững hiên ngang trong lòng Tổ quốc, chắc ông cùng đồng đội đã hy sinh cũng thỏa nguyện về những gì người lính Hải quân Nhân dân Việt Nam đã cống hiến cho đất nước.
Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng TĐ-KT TP. Hải Phòng
Mai Năng tên thật là Tạ Văn Thiều. Ông sinh ngày 4-3-1930 ở thôn Xuân Dương, xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng. Bố mất năm Thiều lên bẩy tuổi. Người mẹ hiền góa bụa, tần tảo lần hồi mò cua, bắt ốc, nuôi hai chị em Thiều khôn lớn. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, 15 tuổi rưỡi, anh tham gia Đoàn Thanh niên Cứu quốc. Năm 1947, anh làm chiến sỹ quân báo xã và lấy tên bí danh là Mai Năng. Năm 1950, cấp trên điều động Mai Năng về đơn vị quân báo huyện đội Kiến Thụy. Năm 1951, anh được cấp trên điều lên Đội quân báo tỉnh đội Kiến An. Nhiệm vụ đầu tiên, đơn vị phân công Mai Năng làm chiến sỹ nuôi quân. Sau thấy Mai Năng hoạt bát, nhanh nhẹn, chỉ huy bố trí anh làm Chiến sỹ thông tin nội, ngoại tuyến. Được gần một năm, anh chuyển sang làm Chiến sỹ trinh sát, chuyên điều tra, nắm tình hình chuẩn bị cho các trận đánh, của bộ đội địa phương tỉnh đội Kiến An.
Ngày 7-3-1954, Bộ đội địa phương tỉnh Kiến An tổ chức tập kích sân bay Cát Bi, đốt cháy 59 máy bay của quân Pháp. Đây là trận đánh phối hợp tuyệt đẹp với chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau trận đánh sân bay Cát Bi, Bác Hồ đã gửi thư khen và tặng đơn vị tham gia trận đánh Cát Bi, danh hiệu “Đoàn dũng sỹ Cát Bi”. Riêng Mai Năng được đơn vị bình chọn là dũng sỹ số 1 của trận đánh.
Kết thúc đánh sân bay Cát Bi, cấp trên điều đội trưởng Mai Năng về tăng cường lực lượng quân sự, tiếp quản thủ đô Hà Nội. Tháng 11-1954, cấp trên lại điều anh trở về tiếp quản Hải Phòng. Mai Năng lần lượt giữ các chức vụ Đội trưởng trinh sát, Đại đội phó, Đại đội trưởng trinh sát Quân khu 3. Năm 1956, Mai Năng đang trên đường sang Liên xô học, thì nước bạn có diễn biến xét lại. Anh cùng cả đoàn quay trở về Quân khu 3 công tác.
Năm 1961, Mai Năng được điều về làm Chính trị viên tàu săn ngầm Bộ Tư lệnh Hải Quân. Thấy việc canh gác trên tàu của bộ đội lơ là, mất cảnh giác, để nhắc nhở cán bộ, chiến sỹ, Chính trị viên Mai Năng cho người xuống nước, buộc gạch vào chân vịt tàu, rồi nổi còi báo động. Sau lần ấy, công tác canh gác, tuần tra mới được chấn chỉnh và cũng là gợi ý cho cấp trên thành lập lực lượng đặc công nước của Hải Quân. Năm 1963, Bộ Tư lệnh Hải quân, giao cho Mai Năng tuyển chọn chín mươi cán bộ, chiến sỹ có sức khỏe, tác phong nhanh nhẹn, tháo vát trong lực lượng Hải Quân đưa họ về trung tâm huấn luyện, đào tạo thành đặc công nước. Mới đầu, các chiến sỹ được huấn luyện trong bể bơi, sau khi thuần thục mới cho họ ra bơi ở sông và bơi ở biển. Người lính bơi từ Đồ Sơn ra đảo Cát Bà và ngược lại, bơi liên tục hai mươi giờ dưới nước. Còn khi tiếp cận mục tiêu, để không bị phát hiện, người lính đặc công phải bơi ngầm dưới mặt nước. Thời gian tập bơi ngầm dưới nước là khó nhất. Đi ngầm dưới nước, phải luyện hơi thở và có ống thở. Ban đầu bộ đội ta ngậm ống tre, nhưng ống tre hay bị dập nát. Sau đó dùng ống thủy tinh, nhưng ống thủy tinh bị sóng biển dập vỡ. Cuối cùng lính ta dùng ống ni non làm ống thở, bơi ngầm dưới nước cả tiếng đồng hồ, không cần ngoi lên mặt nước để thở. Huấn luyện sáu tháng, đơn vị tổ chức diễn tập đánh thử, đạt kết quả rất tốt. Sau đó, Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Hải quân chọn và điều năm mươi cán bộ, chiến sỹ trong chín mươi người đã được huấn luyện, sang làm nòng cốt cho Đoàn 8 Hải quân. Đoàn 8 Hải quân, chính là tiền thân của Lữ đoàn Hải quân 126 ngày nay. Trong hai năm 1964 và 1965, Đoàn 8 Hải quân đã huấn luyện bốn đội, mỗi đội 120 cán bộ, chiến sỹ đặc công nước, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Năm 1966, để có thực tế huấn luyện bộ đội, Mai Năng xin cấp trên cho vào chiến trường chiến đấu. Ngày 12-10-1966, Mai Năng vào tới Quảng Trị, cũng là lúc Bộ Quốc phòng có quyết định thành lập Lữ đoàn 126 Hải quân, gồm 12 đội. Mai Năng được giao làm Đội trưởng Đội 1. Hai tháng sau, chỉ huy điều Mai Năng về làm Trợ lý tham mưu Lữ đoàn.
Từ năm 1969 đến năm 1972, Mai Năng chỉ huy bộ đội chiến đấu mấy chục trận. Ông đã hai lần bị thương. Có những kỷ niệm mà ông nhớ mãi. Đó là, đêm ngày 6-9-1969, ông chỉ huy đơn vị đánh đắm chiếc tàu chở dầu trọng tải 1,5 vạn tấn của Mỹ ở cảng Cửa Việt. Dầu trên tàu cháy đỏ rực cả một góc trời. Đầu tháng 7-1969, ông chỉ huy đơn vị đánh cầu Đông Hà. Khi bộ đội ta đụng địch tổ chức phục kích, ông lệnh cho chiến sỹ dùng bộc phá kích nổ, tiêu diệt 7 tên lính ngụy. Trận đánh cầu bị lộ, Mai Năng cho bộ đội chuyển sang đánh tàu ở cảng Cửa Việt. Khối bộc phá 240 ki-lô-gam dùng để đánh tàu, được chia nhỏ thành 12 quả bộc phá, mỗi quả 20 ki-lô-gam. Trận ấy, ta đánh chìm và phá hủy 12 tàu, tiêu diệt hàng trăm tên địch tại cảng Cửa Việt. Sau trận đánh, Lữ đoàn 126 Hải quân và cá nhân Mai Năng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Chiến dịch xuân hè năm 1972 vô cùng ác liệt, dài chưa từng có, khó chưa từng thấy. Một lần Mai Năng lên báo cáo với Tư lệnh chiến dịch, Tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh chiến dịch khen ngợi Đoàn 126 đặc công đánh giỏi, gây cho địch nhiều thiệt hại ở cảng Cửa Việt và các kho tàng, hậu cứ của địch.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lực lượng đặc công nước tinh nhuệ của bộ đội Hải quân Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và lập những chiến công lừng lẫy. Đánh chìm và phá hủy trên ba ngàn tàu chiến và tàu vận tải. Đốt cháy gần ba trăm triệu lít xăng dầu, phá hủy hàng chục vạn tấn bom đạn địch. Trong chiến công chung đó, có sự đóng góp công sức, trí tuệ, sự hy sinh thầm lặng của Mai Lăng
Tháng 7-1973, cấp trên điều Mai Năng ra Bắc, về làm Đoàn trưởng Đoàn 8 Hải quân. Ông lại tiếp tục chỉ huy huấn luyện bộ đội đặc công nước. Cuối tháng 3-1975, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy giải phóng quần đảo Trường Sa.
Những ngày cuối tháng 3-1975, cuộc tổng tấn công mùa xuân năm 1975 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Các cánh quân chủ lực của ta chia làm ba mũi, thần tốc hành quân tiến về Sài Gòn.
Ngày 24-3-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mật lệnh cho Bộ Tư lệnh Hải quân, chuẩn bị lực lượng, khẩn trương giải phóng quần đảo Trường Sa.
Trung tá Mai năng, Đoàn trưởng Đoàn 8 Đặc công nước, được Bộ Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ chỉ huy bộ đội ra giải phóng quần đảo Trường Sa. Sau ba ngày khẩn trương chuẩn bị, ngày 27-3-1975, Mai Năng cùng 200 cán bộ, chiến sỹ, được lực chọn trong cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8, bí mật lên 7 chiếc xe tải, hành quân vào miền Trung. Mục đích chuyến hành quân này, chỉ có Đoàn trưởng, Chính ủy Đoàn 8 biết.
Ngày 5-4-1975, Mai Năng và toàn thể cán bộ, chiến sỹ đã đến thành phố Đà Nẵng, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tư lệnh Hải quân. Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Văn Thái có mặt ở Đà Nẵng từ trước.
Theo phương án tác chiến ban đầu, do Phòng Tác chiến Bộ Tư lệnh Hải quân lên kế hoạch, Bộ đội đặc công Đoàn 8 có nhiệm vụ cùng một lúc tổ chức chiến đấu, giải phóng 6 đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Lúc thảo luận, nhìn trên sa bàn và hải đồ, Đoàn trưởng Mai Năng nhận thấy, khoảng cách các đảo cách nhau rất xa. Từ đảo Song Tử Tây đến đảo An Bang là 124 hải lý, (249,4 ki-lô-mét). Từ Đà Nẵng ra đảo Song Tử Tây là 480 hải lý, (883 ki-lô-mét). Trong khi đó, lực lượng của ta chỉ có ba chiếc tàu và 200 cán bộ, chiến sỹ, nếu tổ chức đánh đồng loạt cả 6 đảo, với khoảng cách rất xa như vậy. Phương án tác chiến, cùng một lúc giải phóng 6 đảo là không khả thi. Mai Năng liền báo cáo và đề nghị với Phó Tư lệnh Hải Quân Hoàng Văn Thái, cho thay đổi phương án tác chiến, ông trình bày:
- Thứ nhất là, theo tôi, quân ta nên tập trung lực lượng giải phóng từng đảo một. Ta cho bộ đội đánh trước một đảo để rút kinh nghiệm, sau đó mới triển khai đánh tiếp, đánh theo kiểu cuốn chiếu.
- Thứ hai là, vẫn thực hiện phương thức tác chiến mật tập: Cho bộ đội đặc công bí mật, bất ngờ đổ bộ lên đảo.
- Thứ ba là, tác chiến theo cách đánh trinh sát vũ trang. Kinh nghiệm ở các trận đặc công đã đánh từ trước, như đánh tàu ở cảng Cửa Việt, đánh tàu trên sông Lòng Tàu, quân cảng Sài Gòn, kho bom Long Thành..., quân ta phải trinh sát điều nghiên trước rồi mới đánh. Phương châm tác chiến của đặc công là “Mắt phải thấy, tai phải nghe, tay phải sờ” thì đánh mới hiệu quả cao. Song lần này, do thời gian gấp, nên ta phải bỏ qua giai đoạn điều nghiên trinh sát trước. Tác chiến theo cách trinh sát vũ trang: “Trinh đến đâu, sát (đánh) đến đó”.
Những ý kiến đề xuất của Đoàn trưởng Mai Năng đã được Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Văn Thái, người chỉ huy cao nhất ở tiền phương của Bộ Tư lệnh Hải quân duyệt và thông qua. Phó Tư lệnh Hoàng Văn Thái bắt tay Đoàn trưởng Mai Năng, ông nói:
- Thay mặt Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Hải Quân, tôi chúc các đồng chí và toàn thể cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8, lên đường chiến đấu giành thắng lợi, hoàn thành xuất sắc mệnh lệnh của Tổ quốc giao cho.
Sau khi nghe Đoàn trưởng Mai Năng phổ biến, quán triệt chỉ thị của cấp trên, giao cho đơn vị có nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa, toàn thể cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị, ai nấy đều vô cùng phấn khởi và tự hào, vì được vinh dự tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đoàn trưởng Mai Năng thống nhất với Chính ủy Đoàn 8 ra trận với khẩu hiệu: “Xa mấy cũng đi, khó mấy cũng đánh, nhất định đánh thắng trận đầu và giải phóng quần đảo Trường Sa, mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc giữa trùng khơi biển Đông”.
Ngày 10-4-1975, ba tàu chiến của hải quân ta, ngụy trang giả là tàu đánh cá của Phi-lít-pin, chở hai trăm cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8 Đặc công, lặng lẽ rời cảng Đà nẵng tiến ra quần đảo Trường Sa. Khi đoàn tàu của ta, vừa chạy ra vùng biển quốc tế, thì gặp một phi đội máy bay phản lực của Mỹ. Thấy có mấy chiếc tàu lạ, máy bay địch lượn đi, lượn lại, quần đảo dữ dội trên bầu trời vùng biển nơi đoàn tàu của ta đang di chuyển. Để đánh lạc hướng máy bay Mỹ, Đoàn trưởng Mai Năng ra lệnh cho ba chiếc tàu của ta quay mũi tàu, chạy về hướng đảo Hải Nam, Trung quốc. Hơn nửa giờ đồng hồ quần đảo, theo dõi hải trình của ba chiếc tầu lạ, thấy không có gì khả nghi, mấy chiếc máy bay phản lực Mỹ mới bay đi. Lúc ấy, Mai Năng mới cho tầu đổi hướng, chạy về phía đảo Song Tử Tây thuộc quần đảo Trường Sa.
Chập tối ngày 13-4-1975, đoàn tàu của ta còn cách đảo Song Tử Tây 5 hải lý, Mai Năng liền cho dừng lại để quan sát. Đến 8 giờ tối, ông cho ba chiếc tàu chiến tiến vào gần đảo. Khi còn cách đảo 3 ki-lô-mét, Đoàn trưởng Mai Năng mới ra lệnh cho bộ đội xuống nước. Quân ta chia làm ba mũi, theo ba hướng, mang khí tài, vũ khí đạn dược, bơi vào bờ đánh chiếm đảo. Bộ đội vừa xuống nước được mươi phút, chợt có công điện hỏa tốc của Bộ Tư lệnh Hải quân, gửi cho Đoàn trưởng Mai Năng, yêu cầu dừng ngay việc tấn công lên đảo. Trong tình thế ấy, Đoàn trưởng Mai Năng chỉ được phép chọn một trong hai tình huống. Một là chấp hành mệnh lệnh cấp trên, hai là tiếp tục cho bộ đội tiến quân lên đánh chiếm đảo. Với tính quyết đoán, ông suy nghĩ, đằng nào ta cũng phải nổ súng giải phóng quần đảo Trường Sa. Nếu dừng lại, quân ta vừa lỡ thời cơ vừa dễ bị lộ, việc đánh tiếp sau này sẽ gặp khó khăn. Sau khi hội ý nhanh với Ban chỉ huy Đoàn, Mai Năng quyết định vẫn tiếp tục cho bộ đội nổ súng đánh chiếm, giải phóng đảo. Ông liền điện đàm về Bộ Tư lệnh Hải quân:
- Bộ đội đã xuống nước hết rồi, không thể gọi lại được nữa. Báo cáo Bộ Tư lệnh, chúng tôi quyết định nổ súng giải phóng đảo Song Tử Tây.
Trả lời xong, ông cho tắt hết máy điện đàm 15Woát, chỉ cho sử dụng máy điện đàm cầm tay tầm ngắn, để tránh bị lộ. Khi ba mũi quân ta tiến lên đảo, địch cố thủ trên đảo nổ súng chống trả quyết liệt. Hỏa lực địch ở trên đảo rất mạnh, pháo 75 mi-li-mét, súng máy phòng không 12,7 mi-li-mét, súng phóng lựu của chúng bắn ra dữ dội. Dưới ánh sáng soi rõ như ban ngày của pháo sáng, cả ba mũi chiến đấu của quân ta không thể nào tiến lên được. Thấy vậy, đoàn trưởng Mai Năng liền ra lệnh cho pháo 100 mi-li-mét trên ba chiếc tàu chiến của ta đồng loạt nổ súng, yểm trợ cho bộ binh đánh chiếm đảo. Sau mấy loạt đạn pháo 100 mi-li-mét của ta, binh lính địch trên đảo rất hoang mang sợ hãi. Nhất là nghe được tiếng hô chỉ huy, của Đoàn trưởng Mai Năng vang trong máy bộ đàm. Tên Trung tá ngụy, Chỉ huy đảo bèn ra lệnh cho binh lính:
- Các chiến hữu ơi, lực lượng tấn công lên đảo là quân của Bắc Việt rồi. Bây giờ ta đầu hàng thì sống, cố tình chống cự thì chết. Tôi yêu cầu các chiến hữu buông súng đầu hàng quân đội Bắc Việt.
Nghe lệnh của Chỉ huy đảo, tất cả sỹ quan và lính ngụy trên đảo Song Tử Tây vội vàng gương cờ trắng, buông súng đầu hàng.
Lên đảo, việc đầu tiên Mai Năng cho triển khai ngay lực lượng và vũ khí phòng thủ trên đảo. Việc thứ hai, ông điều một chiếc tàu chở toàn bộ sỹ quan, binh lính ngụy đã đầu hàng về cảng Đà nẵng. Đồng thời ông cho mở máy điện đàm 15Woát, báo cáo tình hình về Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Hải quân. Mất liên lạc với Đoàn 8 đặc công gần hai tiếng đồng hồ, ở Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Hải quân, ai cũng lo lắng, bồn chồn, không hiểu tình hình ở đảo Song Tử Tây diễn biến như thế nào. Khi nghe Mai Năng báo cáo quân ta đã giải phóng đảo Song Tử Tây. Mọi người ở sở chỉ huy bật đứng lên vỗ tay, reo hò mừng rỡ. Tư lệnh Hải quân biểu dương, hoan nghênh, chúc mừng chiến công của cán bộ, chiến sỹ đoàn 8. Ông yêu cầu đơn vị tiếp tục triển khai chiến đấu, giải phóng tiếp năm hòn đảo còn lại ở quần đảo Trường Sa.
Ngày 25-4-1975, Mai Năng tiếp tục chỉ huy bộ đội, lần lượt đánh chiếm đảo Sơn Ca, Đảo Sinh Tồn, đảo An Bang, đảo Trường Sa lớn, đảo Nam Yết. Nhìn thấy tầu chiến của ta treo cờ đỏ sao vàng và cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp cận đảo, chỉ huy và binh lính Ngụy vội vàng bỏ đảo, kéo nhau xuống tàu, tháo chạy.
Ngày 29-4-1975, trước một ngày năm cánh quân của ta tiến vào Sài Gòn, sáu đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, đã được hoàn toàn giải phóng.
Thành công của chiến dịch giải phóng quần đảo Trường Sa, là sự chỉ đạo sáng suốt của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư lệnh Hải Quân và tinh thần chiến đấu dũng cảm của cán bộ, chiến sỹ Đoàn 8 Đặc công. Trong đó, có sự đóng góp không nhỏ của Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Mai Năng. Tính quyết đoán và sáng tạo của người chỉ huy trận đánh, đã giúp cho quân ta giành thắng lợi. Việc giải phóng quần đảo Trường Sa, có ý nghĩa cực kỳ to lớn là giải phóng vùng biển rộng lớn, giầu tài nguyên, tạo ra khả năng phòng thủ từ xa, bảo vệ biên cương của tổ quốc.
Sau khi giải phóng quần đảo Trường Sa, giữa tháng 5-1975, ông được Bộ Quốc phòng cử đi học tập ở Liên Xô. Hai năm sau, Mai Năng về nước, tham gia chiến đấu ở mặt trận Tây Nam. Năm 1979, ông tham gia chỉ huy bộ đội hải quân, chiến đấu đánh chiếm cảng Cô-kông, cảng Công-pông-xom, cảng Xi-ha-nuc-vin và giải phóng thủ đô Phnôm-pênh.
Dù Thiếu tướng Mai Năng vận bộ quân phục nhà binh, trên ngực ông lấp lánh huân huy chương hay mặc bộ quần áo bà ba dân dã, khuôn mặt ông lúc nào trông cũng hiền từ, đôn hậu, cởi mở. Ánh mắt, nụ cười, giọng nói chậm rãi, khúc triết của ông, gieo vào lòng mọi người đối diện sự thân thiện, tin cậy. Từ khi về hưu, năm nào cũng có nhiều đoàn thể, trường học, cơ quan, mời ông đến nói chuyện về cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Chuyện ông kể là trận đánh sân bay Cát Bi, chiến đấu đánh tàu chiến ở cảng Cửa Việt và nhất là chuyện ông trực tiếp chỉ huy lực lượng đặc công giải phóng quần đảo Trường Sa cuối tháng 4 năm 1975. Mặc dù Thiếu tướng Mai Năng đã về với thế giới người hiền, nhưng hôm nay, chủ quyền biển, đảo thiêng liêng vẫn sừng sững hiên ngang trong lòng Tổ quốc, chắc ông cùng đồng đội đã hy sinh cũng thỏa nguyện về những gì người lính Hải quân Nhân dân Việt Nam đã cống hiến cho đất nước.