80 năm cách mạng tháng 8 năm 1945 - Sụ kiện vĩ đại của dân tộc ta vẫ còn nguyên giá trị
- Thứ năm - 28/08/2025 03:28
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Đại tá, Th.sỹ Trần Quốc Huy
Chủ tịch Chi hội KHLS Quân sự
Hội viên Câu lạc bộ Hải Phòng học
Trong những ngày này, Đảng, toàn dân, toàn quân trong cả nước và thành phố Hải Phòng phấn khởi và tự hào tổ chức nhiều hoạt động chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9 (1945-2025). Đây là sự kiện vĩ đại của dân tộc ta, nhân dân ta, đất nước trong lịch sử dựng nước và giư nước. Tầm vóc và ý nghĩa to lớn và những bài học kinh nghiệm Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị.
Năm 1858, thực dân Pháp mở đầu hành trình xâm lược Việt Nam, đất nước ta chìm trong màn đêm nô lệ. Kể từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, do sự hèn nhát của Triều đình nhà Nguyễn, nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam trở thành thuộc địa nửa phong kiến
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhiều phong trào yêu nước như: Cần Vương, khởi nghĩa Trương Công Định, khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám…nhưng đều bị dìm trong bể máu; nhiều nhà sỹ phu yêu nước ngày đêm trăn trở tìm đường cứu nước. Cụ Phan Châu Trinh có chủ trương cải lương dựa vào chính thực dân Pháp để trấn hưng dân tộc, thì khác nào mong giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để kháng Pháp chẳng khác nào đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối cứu nước, mà thực chất là khủng hoảng giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng. Nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản là: Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp; mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà chủ yếu là nông dân, với địa chủ phong kiến. Muốn cho cách mạng Việt Nam tiến lên thì đồng thời phải giải quyết cả hai mâu thuấn này. Nhân dân ta phải một cổ hai tròng, sống vô cùng cực khổ lầm tham.
Trong thời điểm lịch sử đã sinh ra một con người của lịch sử và chính con người đó đã làm rạng rỡ lịch sử của dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta - đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh ra và lớn lên tại làng Hoàng Trù, Kiêm Liên, Nam Đàn, Nghệ An, trong một gia đình nho giáo yêu nước, Hồ Chí Minh đã sớm có lòng yêu nước, thương dân.
Người tận mắt chứng kiến cảnh dân tộc ta sống trong lầm than nô lệ, bị áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Vượt lên những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh xuống tàu buôn của Pháp mang tên La-tút Trơ-vin-nơ ra đi tìm đường cứu nước.
Người chủ trương sang Pháp để tìm hiểu đằng sau những chữ “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” thực chất là cái gì ?! Đánh Pháp lại sang chính nước Pháp để tìm cách đánh, thì đây là nét độc đáo, sáng tạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đi khắp năm châu bốn bể, tìm hiểu đời sống của nhân dân lao động trên toàn thế giới, Người rút ra kết luận: Trên đời này có hai giống người, giống người bóc lột và giống người bị bóc lột mà thôi.
Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản. Đề cương đã chỉ rõ: “Điều quan trọng nhất của quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản”. Đây là “cẩm nang thần kỳ”, “thanh kiếm màu nhiệm” mà lãnh tụ Hồ Chí Minh bao năm tháng gian nan, bôn ba khắp 5 châu, 4 bể mới tìm được. Niền tin ấy là cơ sở tư tưởng để Người vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác-Lênin: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Do có sự chuẩn bị tích cực của Hồ Chí Minh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, từ ngày 6 tháng 1 đến 8 tháng 2 năm 1930, tại Hương Cảng, Hồng Kông, Trung Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử là Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cách mạng Việt Nam chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Hội nghị đã đề ra đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đảng ta đã xác định đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam, đó là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành lại độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày và đi lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Động lực cách mạng là giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân, con đường bạo lực cách mạng là con đường giành chính quyền và yêu cầu tất yếu của việc tổ chức lực lược vũ trang cách mạng.
Trong chính cương vắn tắt của Đảng tháng 2/1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới việc “tổ chức ra quân đội công nông”. Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng cũng chỉ rõ nhiệm vụ: “ vũ trang công nông”, “lập quân đội công nông”, “ tổ chức đội tự vệ công nông”.
Ngày 22/12/1944, thực hiện sự chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tại khu rừng thuộc núi Dền Sinh, dãy Khâu Giáng nằm giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh uỷ nhiệm đã tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Chỉ thị cũng khẳng định ý nghĩa to lớn của việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân: “Tuy Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta”.
Trước tình hình thế giới, Liên Xô đã thắng chủ nghĩa phát xít, cổ vũ cho phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến bộ hòa bình; trong nước, mẫu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp đã lên đỉnh điểm, mà điển hình là hơn 2 triệu người chết đói, thực hiện tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Dù có phải đốt cháy cả dãy trường Sơn cũng cương quyết giành cho được độc lập”, từ ngày 13-15 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư trực tiếp phụ trách. Đêm ngày 13/8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra quân lệnh số 1.
Ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dân khai mạc tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang): quy định Quốc kỳ (cờ đỏ sao vàng 5 cánh), Quốc ca (bài hát Tiến quân ca của Nhạc sỹ Văn Cao), thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời, do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 16/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi quân dân cả nước “Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa” trong đó nêu rõ: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!”.
Chỉ trong vòng 15 ngày, các cuộc khởi nghĩa tiến hành trong cả nước: Ngày 19 tháng 8 khởi nghĩa tại Hà Nội; ngày 20-25 tháng 8: Thái Nguyên tiến hành khởi nghĩa; Ngày 23 tháng 8 khởi nghĩa ở Huế; Ngày 25 tháng 8 khởi nghĩa ở Sài Gòn, Trong khu vực miền Duyên hải Bắc Bộ, ngày 23 tháng 8 khởi nghĩa giành thắng lợi ở thành phố Hải Phòng và 24 tháng 8 khởi nghĩa giành thắng lợi ở Kiến An.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định roxL “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Nhân dân và LLVT diễu hành biểu dương lực lượng, nguyện đoàn kết, đem hết tinh thần và lực lượng , tính mạng và của cải để giữ vững quyên tự do và độc lập.
80 năm đã trôi qua, nhưng Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ công hòa vẫn mãi mãi là sự kiện vĩ đại của dân tộc ta, nhân dân ta trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước ở Thế kỷ thứ 20. Cách mạng Tháng Tám đánh đổ chế độ nô lệ của thực dân Pháp, chế độ phong kiến, mở ra cho dân tộc ta, đất nước ta một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên dân tộc ta làm chủ vận mệnh của mình, kỷ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Tám thành công thành lập Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, cổ vũ phong trào đấu tranh giành độc lập của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ - La tinh và có ảnh hưởng to lớn đến hai dân tộc Cam-pu-chia và Lào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất đã viết về tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám: “Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân điển hình ở một nước thuộc địa nửa phong kiến do giai cấp công nhân lãnh đạo. Thắng lợi ấy đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ của giai cấp công nhân, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Đó là thắng lợi của đường lối đoàn kết toàn dân, sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến. Đó là sự tài tình, sáng tạo của Đảng trong việc tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước”.
Phát huy thành quả của Cách mạng Tháng Tám 1945, 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo và tài thao lược sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhân dân ta và các lực lượng vũ trang nhân dân đã vượt qua bao gian khổ hy sinh, đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta iến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu; tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Tổ quốc thống nhất, giang sơn thu về một mối. Chúng ta đã được nhiều thành tựu những năm đầu đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ biên giới Tây Nam và Biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Chúng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới đất nước giành được những kết quả to lớn có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế nâng cao...như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” và ngày nay như Tổng Bí thư Tô Lâm xác định đất nước ta đang tiến vào “kỷ nguyên mới” - kỷ nguyên của dân tộc vươn mình vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.