Hải Phòng học

http://haiphonghoc.vn


Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Phật giáo Thành phố Hải Phòng

Phật giáo Hải Phòng có lịch sử lâu đời, có quan điểm cho rằng địa điểm đầu tiên Phật giáo truyền vào nước ta chính là thành Nê lê (Đồ Sơn, Hải Phòng). Đến nay, ngôi chùa Hang, với huyền tích nhà sư Bần, Chử Đồng Tử gắn liền với sự kiện Phật giáo truyền vào nước ta đầu tiên.
bao ton phat huy di san van hoa phat giao hai phong
Cổng chùa cổ


PGS.TS. Chu Văn Tuấn

Viện Nghiên cứu Tôn giáo

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Mở đầu

Phật giáo Hải Phòng có lịch sử lâu đời, có quan điểm cho rằng địa điểm đầu tiên Phật giáo truyền vào nước ta chính là thành Nê lê (Đồ Sơn, Hải Phòng). Đến nay, ngôi chùa Hang, với huyền tích nhà sư Bần, Chử Đồng Tử gắn liền với sự kiện Phật giáo truyền vào nước ta đầu tiên. Trong khi đó Lê Mạnh Thát thì đưa ra giả thuyết, thành Nê lê không phải thuộc về Đồ Sơn, Hải Phòng mà thuộc về Tây Thiên, Vĩnh Phúc, chữ “nê lê” gắn với ngôi chùa Địa Ngục ở Tây Thiên. Cho dù Thành Nê lê, hay Đồ Sơn, Hải Phòng có phải là địa điểm đầu tiên Phật giáo du nhập vào nước ta hay không, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận được Phật giáo đã hiện diện ở Xứ Đông nói chung, Hải Phòng nói riêng từ rất sớm. Chính điều đó đã tạo cho Phật giáo Hải Phòng có một bề dầy lịch sử, với những di sản văn hoá vật thể, phi vật thể phong phú, đa dạng và rất có giá trị. Những giá trị đó đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước qua các triều đại cũng nhưng những đóng góp cho lịch sử Phật giáo Việt Nam. Những giá trị di sản văn hoá của Phật giáo Hải Phòng là cơ sở, tiền đề cho Phật giáo Hải Phòng hôm nay tiếp tục kế thừa, phát triển trong giai đoạn tới. Trong phạm vi có hạn của bài viết, chúng tôi sẽ tập trung vào di sản văn hoá vật thể của Phật giáo Hải Phòng, những di sản văn hoá phi vật thể của Phật giáo Hải Phòng sẽ dành cho dịp khác.

1. Một số đặc điểm của Phật giáo Hải Phòng

Phật giáo Hải Phòng có lịch sử lâu đời, có những dấu tích gắn với quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Phật giáo Hải Phòng thuộc về Phật giáo Xứ Đông, do vậy mang những đặc điểm, bản sắc của Phật giáo Xứ Đông. Vậy, đặc điểm của Phật giáo Xứ Đông nói chung, Phật giáo Hải Phòng nói riêng có những đặc điểm gì nổi bật? Chúng tôi cho rằng, Phật giáo Hải Phòng có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, Phật giáo Hải Phòng có lịch sử lâu đời, có những ngôi chùa cổ có lịch sử hàng nghìn năm, thậm chí xa hơn nữa như chùa Hang (tương truyền được hình thành trước Công nguyên), chùa Bảo Quang (Phụng Pháp), tương truyền được xây dựng từ

_____________________

1 Xem: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2014), Phật giáo thời Hậu Lê, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr. 118.

thời Ngô Quyền, sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938; chùa Dư Hàng được xây dựng thời Tiền Lê, chùa Đót Sơn tương truyền được hình thành đời nhà Lương (502-577), chùa Đông Khê (Nguyệt Quang tự), tương truyền được hình thành vào thế kỷ II, III; chùa Long Hoa được xây dựng vào thời Lý, chùa Tường Long cũng được xây dựng thời Lý, chùa Vẽ cũng được hình thành từ thời Lý, v.v..

Thứ hai, mặc dù trong giai đoạn lịch sử nào, Phật giáo Hải Phòng cũng có những

mối quan hệ gắn bó với vận mệnh của Phật giáo và dân tộc, nhưng có thể nói Phật gián Hải Phòng gắn bó mật thiết với vương triều nhà Mạc, mang đậm dấu ấn, phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Mạc. Nhiều ngôi chùa đã được xây dựng mới, hoặc trùng tu, tôn tạo trong thời kỳ nhà Mạc. Có thể nói, nhà Mạc rất sùng bái Phật giáo, cho phép phát triển Phật giáo, cổ vũ việc xây dựng, trùng tu chùa chiền. Hải Phòng lại là mảnh đất quê hương, nơi phát tích của Nhà Mạc, do vậy, trong thời gian nhà Mạc năm quyền, Phật giáo Hải Phòng phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước. Nhiều tư liệu văn bia cho thấy, hoàng tộc nhà Mạc đã xây dựng, tu sửa rất nhiều ngôi chùa ở nhiều tỉnh, thành phố, trong số đó, có thể nói Hải Phòng là nơi có nhiều ngôi chùa được nhà Mạc xây dựng, trùng tu nhất. Có thể nêu ra một số ngôi chùa như sau: Chùa Bà Đanh (Thiên Phúc tự, xã Trà Phương), Nhân Trai, Đại Trà, Phúc Hải, Hoà Liễu, chùa Cối Sơn, chùa Thiên Phúc (xã Hoà Niểu) (Huyện Kiến Thuỵ); Chùa Lôi Động, Phục Lễ, Thiểm Khê, Tân Dương (Huyện Thuỷ Nguyên); Chùa Quang Khải (Huyện An Dương); Chùa Minh Thị, Hà Lân, Phú Kế, Tiên Đôi, Minh Phúc (Huyện Tiên Lãng); Chùa Đồng Quang (huyện Vĩnh Bảo); Chùa Bích Phương, Áng Sơn (Huyện Tiên Lãng)1. Chính vì vậy, những dấu tích vật thể, phi vật thể mang dấu ấn, phong cách nghệ thuật thời Mạc vẫn còn tương đối trong Phật giáo Hải Phòng.

Thứ ba, Phật giáo Hải Phòng có mối quan hệ gắn bó với Phật giáo Trúc Lâm đời Trần, do vậy, mang những đặc điểm của Phật giáo Trúc Lâm. Nhiều ngôi chùa của Phật giáo Hải Phòng được xây dựng từ thời Trần, nhiều ngôi chùa thờ Tam tổ Trúc Lâm, nhiều ngôi chùa là nơi Tam tổ Trúc Lâm từng đến thuyết pháp, giảng kinh, tổ chức các nghi lễ Phật giáo. Phật giáo Hải Phòng cùng với Phật giáo Hải Dương, Quảng Ninh... tạo thành một vùng văn hoá Phật giáo Trúc Lâm, với hệ thống các ngôi chùa của Phật giáo Trúc Lâm được xây dựng từ thời Trần và được duy trì cho đến những giai đoạn sau. Một số văn bia ở Hải Phòng đã khẳng định mối quan hệ của các tăng sỹ, các ngôi chùa ở Hải Phòng với Thiền sư Chân Nguyên, người phục hưng Phật giáo Trúc Lâm thế kỷ XVIII.

Thứ tư, Phật giáo Hải Phòng có nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể quý giá. Những di sản này chứa đựng những thông tin, tư liệu quý giá về lịch sử Phật giáo Việt Nam, lịch sử Việt Nam qua các triều đại, đặc biệt là thời Mạc. Thông qua những bia ký của Phật giáo Hải Phòng, chúng ta có thể biết được đời sống xã hội Việt Nam, nhất là thời nhà Mạc, Lê Trung Hưng. Đặc biệt, những tấm bia này đã giúp cho chúng ta hiểu về tục bầu hậu, cũng hậu, gửi giỗ trong chùa, cúng ruộng cho chùa... bởi đây là những phong tục được thịnh hành trong thời nhà Mạc. Như vậy, vào thời Mạc, ngoài việc cúng tiền, ruộng, các tài sản khác cho chùa, còn có việc quý tộc bỏ tiền bầu hậu cho chùa, làm tượng hậu - chân dung của mình đặt trong chùa như trường hợp chân dung bà chúa Mạc ở chùa Phổ Minh, chân dung bà Hoàng hậu Trà Phương ở chùa Trà Phương¹. Việc thờ tượng vua, Hoàng hậu trong chùa cũng là đặc điểm khác biệt so với các giai đoạn khác cũng như là điểm khác biệt với các địa phương, vùng miền.

Thứ năm, Phật giáo Hải Phòng thời nhà Mạc là Phật giáo dân gian, Phật giáo gắn với làng xã. Thời nhà Mạc, việc trùng tu tôn tạo các ngôi chùa rất phổ biến, nhưng đa phần là do nhân dân với sự trợ giúp của các quan lại, hoàng thân quốc thích. Phật giáo Hải Phòng có sự dung hợp với tam giáo, với tín ngưỡng, đặc biệt là nho giáo. Dấu ấn Đạo giáo cũng xuất hiện ở một số ngôi chùa ở Hải Phòng thời Mạc. Thời nhà Mạc, nhiều nho sỹ như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Ích Mộc (đều là những người quê Hải Phòng) đã hết lòng hộ trì Phật giáo. Một đặc điểm khá nổi bật của Phật giáo Hải Phòng đó là, vào thời Nhà Mạc, tín ngưỡng thờ Quan âm khá phổ biến, nhất là tín ngưỡng thờ Bồ tát Quan âm Nam Hải.

2. Di sản văn hoá Phật giáo thành phố Hải Phòng

Di sản kiến trúc Phật giáo Hải Phòng

Hải Phòng hiện có 618 ngôi chùa, trong đó có 33 ngôi xếp hạng di tích cấp quốc gia, 127 ngôi xếp hạng di tích cấp thành phố. Mặc dù ở Hải Phòng, có nhiều ngôi chùa xuất hiện từ rất sớm, tuy nhiên, đến hiện nay, dấu ấn kiến trúc, nghệ thuật đậm nét nhất là thời kỳ nhà Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Thời nhà Mạc, nhiều ngôi chùa tại Hải Phòng đã được trùng tu. Đây cũng là điều dễ hiểu khi Hải Phòng là nơi phát tích của Nhà Mạc. Cụ thể như chùa Đông Ninh (Hà Lâu tự, 1589), xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng; chùa Minh Thị (1574), xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng; chùa Hồng Khánh (1589), xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng; chùa Sùng Ân (Phú Khê), thị Trấn Tiên Lãng (1578), huyện Tiên Lãng; chùa Bảo Khánh (1589), xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng²; chùa Thiên Phúc (huyện Kiến Thuỵ), chùa Bà Đanh, chùa Hoa Tân³, v.v...

_____________________

1 Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội (2015), Vương triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 498.

2 Ban Văn hoá Trung ương, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Bảo tồn Di tích, bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thống nhất trong đa dạng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 2023, tr. 332.

3 Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2014), Phật giáo thời Hậu Lê, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr. 121- 122.

 

 

 

Theo GS Phan Đăng Nhật, có 168 ngôi chùa được xây dựng và tu bổ dưới thời Mạc, trải rộng trên 16 tỉnh từ Lạng Sơn, Tuyên Quang cho đến Ninh Bình. Trong số này, Hải Dương có nhiều chùa nhất (30 chùa), Hải Phòng (23 chùa)1.

Chùa Dư Hàng (Phúc Lâm tự) là một ngôi chùa cổ của Hải Phòng, tương tuyền chùa được xây dựng từ thời Tiền Lê (thế kỷ X). Trải qua nhiều thế kỷ, chùa đã được trùng tu nhiều lần, trong tấm bia còn lưu giữ tại chùa, chùa đã từng được trùng tu vào khoảng năm 1672-1673. Kiến trúc của chùa gồm tam quan nội, chính điện, nhà tổ phương trượng. Hiện nay chùa còn giữ được nhiều hiện vật có giá trị: chuông đồng đúc năm 1922, nhiều pho tượng cổ có giá trị, vườn tháp tổ có lịch sử trên 400 năm, trong đó có tháp thờ Tổ Chân Huyền, Tổ Tuệ Khả. Tổ Phúc Nguyên, Chiều Hinh, đặc biệt là tháp thờ xá lợi của Điều Ngự Giác Hoàng. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ hai bia đá dựng năm 1672 và 1859.

Chùa Hang (Cốc tự) là một ngôi chùa tương truyền được hình thành những năm trước công nguyên, cuối thời đại Hùng Vương, chùa gắn với sự tích một nhà sư Ấn Độ (Sư Bản), theo thuyền buôn đã đến truyền bá Phật giáo tại Việt Nam. Do đó, ngôi chùa được gắn với sự kiện lần đầu tiên Phật giáo truyền vào nước ta. Chùa có địa thế, cảnh quan đẹp, lưng chùa dựa vào hang núi, hướng ra biển. Trong chùa ngoài chính điện thờ Phật, còn có ban thờ tổ, ban thờ Mẫu, nơi thờ tượng Sư Bần. Ngoài ra, chùa còn có giếng Ngọc trong hang đá cổ2.

Chùa Tháp Tường Long. Ngôi chùa nằm trên đỉnh Mẫu Sơn, thuộc phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Chùa được xây dựng trên nền móng tháp Tường Long do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng vào thế kỷ XI. Chùa Tháp Tường Long được khởi công xây dựng vào năm 2007 và hoàn thành năm 2017. Tháp cao 9 tầng, tầng 1 có pho tượng Phật A Di Đà bằng ngọc thạch, nguyên khối cao 1,86m. Bên cạnh tháp là chùa mới được xây dựng đồ sộ, gồm 3 tầng, hai tầng dưới là phòng khách, nhà tăng, nhà tổ, nhà Mẫu. Tầng 3 là bảo điện gồm 7 gian tiền đường, 2 gian ống muống, 3 gian hậu cung (kiến trúc theo kiểu chữ công). Bảo điện đặt 20 pho tượng Phật bằng đồng nặng hơn 20 tấn. Chuông chùa đúc phỏng theo chuông chùa Vân Bản, nặng hơn 1 tấn3. Chùa Vàng được thiết lập thờ đức Phật Tỳ Lô Giá La và Phật Mẫu chuẩn đề. Đặc biệt, cạnh tháp Tường Long là nơi bảo tồn khảo cổ học tháp Tường Long xưa kia.

_____________________

1 Dẫn theo Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội (2015), Vương triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 501.

2 Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng (2022), Chùa Hải Phòng xưa và nay, tập 1, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng, tr. 106-111.

3 Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng (2022), Chùa Hải Phòng xưa và nay, tập 1, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng, tr. 112-114.

 

 

 

 

Chùa Trà Phương - Thiên Phúc tự (còn gọi là chùa Bà Đanh). Ngôi chùa có lịch sử hàng nghìn năm tại làng Trà Phương, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng. Năm 2007, chùa được Nhà nước công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Theo một số tư liệu, chùa Trà Phương được xây dựng từ thời Lý, khoảng đầu thế kỷ XI (1010 - 1020) và được trùng tu tôn tạo vào thế kỷ XVI đời nhà Mạc, người có công lao to lớn trong việc trùng tu tôn tạo chùa Trà Phương trong thời Nhà Mạc chính là Thái hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, một người con của Trà Phương. Hoàng thái hậu họ Vũ đã cúng 30 mẫu ruộng và 6.000 lá vàng cùng tiền bạc cho rất nhiều ngôi chùa ở Dương Kinh, Hải Phòng. Do đó, bà được suy tôn là “Mẫu nghi thiên hạ, là Phật sống trên trần gian”1. Do chiến tranh, chùa Trà Phương đã bị phá huỷ và được phục dựng trở lại từ thời Nguyễn, do vậy hiện nay mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Chùa có hai bảo vật quốc gia là tượng Mạc Đăng Dung và phù điêu thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn.

Một số di sản vật thể tiêu biểu của Phật giáo Hải Phòng

Các bảo vật quốc gia:

Hiện Phật giáo Hải Phòng có 3 bảo vật quốc gia là: Tượng Thái tổ Mạc Đăng Dung, phù điêu Thái hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, chuông chùa Vân Bản (niên đại thế kỷ XIII, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). Tượng Thái tổ Mạc Đăng Dung được làm từ đá, có chiều cao 63cm, ngang 37cm. Tượng mặc áo bào, đội mũ trụ đứng, đỉnh bằng thể hiện sự uy quyền. Trên áo có chạm hình rồng trong thế cuộn tròn, mang đặc trưng rồng thời Mạc. Phù điệu Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn (là người làng Trà Phương và là chính thất của Thái tổ Mạc Đăng Dung) có chiều cao 56cm, vai ngang 23cm. Tượng được tạc hõm sâu vào đá nguyên khối. Phía ngoài phiến đá tạo tác kiểu văn bia, chạm khắc biểu tượng bông sen 16 cánh đơn... Pho tượng vua Mạc Đăng Dung và phù điêu Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là bảo vật quốc gia ngày 31/12/20202.

Về chuông chùa Vân Bản, theo thông tin từ Cục Di sản, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Chuông chùa Vân Bản (Chuông được tìm thấy tại vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng năm 1958) có kích thước: cao: 127 cm; đường kính miệng: 80 cm. Chuông có hình trụ đứng, miệng loe, được trang trí bởi các cánh sen kép. Quai chuông trang trí hai con rồng đấu lưng vào nhau, chỏm quai được tạo bởi hình búp sen, thân rồng trang trí vẩy cá chép. Thân chuông được chia bởi các đường gân ngang dọc tạo thành 8 ô, trên mỗi ô hình thang đứng, 4 ô dưới hình chữ nhật. Trong hai ô trên có hai bài minh khắc bằng chữ Hán, 4 ô dưới để trên. Chuông có 6 núm tròn, xung quanh mỗi núm tạo hình bông hoa cúc nhiều cánh. Vành miệng chuông trang trí 52 cánh sen kép. Minh văn trên một ô nói về việc cúng ruộng đất vào chùa và chức Quan Tả Bộc Xạ. Chuông có niên đại thời Trần gắn với với chùa Vân Bản, tháp Tường Long ở vùng Đồ Sơn (Hải Phòng)3.

_____________________

1 Đinh Khắc Thuận (1996), Vương triều Mạc, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 144-147.

2 https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/54/157092/tra-phuong-ngoi-chua-co-nghin-nam-mang-dam-gia-tri-van-.

3 http://dsvh.gov.vn/chuong-chua-van-ban-3057.

Trang trí trên chuông thể hiện qua hình tượng rồng, cánh sen... phản ánh nghệ thuật Phật giáo thời Trần. Nội dung minh văn là sử liệu văn bản quý giúp cho việc nghiên cứu lịch sử, chức danh và Phật giáo ở thời Trần. Chính vì vậy, đây là một di sản rất quý giá của Phật giáo Hải Phòng nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung.

Các văn bia:

Trong nhiều tài liệu như Văn bia Tiên Lãng, Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, 2009; Đinh Khắc Thuân (1996), Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, v.v.. đã cho biết hiện có nhiều văn bia của các ngôi chùa trên địa bàn Hải Phòng vẫn còn được lưu giữ đến ngày hôm nay. Cuốn Văn bia Tiên Lãng đã cho thấy, riêng trên địa bàn huyện Tiên Lãng, có khoảng 234 tấm bia thì đa phần là bia liên quan đến Phật giáo, liên quan đến việc trùng tu, tôn tạo các ngôi chùa, bia hậu, bia công đức, bia đúc chuông, tạo tượng, v.v.. Trong cuốn Lịch sử Phật giáo thành phố Hải Phòng, đã nêu ra 50 tấm bia tiêu biểu, nhiều tấm bia được lập trong thế kỷ XVI, nhất là XVII. Trong số 50 tấm bia mà cuốn sách nêu, đa số được tìm thấy tại các ngôi chùa của huyện Thủy Nguyên, huyện An Dương, huyện Vĩnh Bảo... Mặc dù trên thực tế, nhiều tấm bia hiện nay không còn nhưng việc lưu giữ được thác bản có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Hải Phòng, di sản văn hoá Phật giáo Hải Phòng. Dưới đây là nội dung một số văn bia tiêu biểu:

Văn bia chùa Chuyết Sơn, xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng (được khắc năm Hồng Đức thứ 22, 1491) cho biết, chùa Chuyết Sơn là một ngôi chùa nổi tiếng ở xứ Tân Minh. Chùa được xây dựng từ rất sớm, từ thời Nhà Lượng chùa đã xuất hiện, trải qua các đời Lý, Trần chùa tiếp tục được trùng tu, tôn tạo. Đến thời Lê Thánh Tông chùa tiếp tục được trùng tu tôn tạo một cách quy mô, tượng Phật thân cao 6 trượng được tạo1

Văn bia chùa Bà Đanh (chùa Thiên Phúc, xã Trà Phương, Kiến Thuỵ, bia lập năm 1562) ghi chép rất tỷ mỷ về việc hoàng tộc và quan lại nhà Mạc góp tiền của tu tạo chùa: “Khiêm Thái vương cúng bạc 10 lạng; Lị vương, Thuận vương: 5 lạng; Vinh Quốc thái phu nhân 9 lạng 5 tiền; Tĩnh Quốc thái phu nhân 10 lạng; Bảo Gia thái trưởng công chúa tiền 10 quan; Phúc Nghi thái trưởng công chúa 1 lạng 8 tiền; Thọ Phương thái trưởng công chúa 2 lạng 8 tiền... Sùng Quốc công 5 lạng; Văn Quốc công 9 lạng, 5 tiền; Ninh Quốc công 2 lạng; Triều quận công 1 lạng; Phú quận công 1 lạng; Trịnh Quận công gỗ lim 2 cây.. An Quận công 1 lạng, khuyên tai 1 đôi, Vị quận công 1 lạng, khuyên tai 1 đôi...”2

Văn bia chùa Thiên Phúc (xã Hoà Niễu, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng, bia lập năm 1562) ghi chép chi tiết các vị trong hoàng tộc nhà Mạc có công với chùa: “Thái Hoàng Thái hậu họ Vũ. Hoàng thái Hậu họ Phan. Khiêm Thái vương họ Mạc. Thuận vương học Mạc, Vi vương họ Mạc. Tĩnh Quốc Thái phu nhân họ Nguyễn. Quốc Thái phu nhân họ Vương. Thọ Phương Thái trưởng công chúa họ Mạc.

_____________________

1 Thích Đức Thiện, Đinh Khắc Thuân (đồng chủ biên, 2017), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3, Văn bia Phật giáo thời Lê sơ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 113.

2 Định Khắc Thuân (1996), Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 115; xem thêm Chu Văn Tuấn, Đời sống Phật giáo thời Mạc, in trong Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo thời Nhà Mạc, Hải Phòng, 2022.

 

 

Phúc Thành Thái trưởng công chúa họ Mạc. Bảo gia Thái trưởng công chúa họ Mạc. Tu Hoà công chúa họ Nguyễn. Khiêm Thái vương phi họ Mạc... Thuỵ Quốc công, Trường Quốc công;Sùng Quốc công; Văn Quốc công; Ninh Quốc công. Đoan Quận công; Lập Quận công; Phú Quận công; Hoa Quận công, Khang Quận công, Tuy Quận công, Triều Quận công...”1

Văn bia chùa Vân Lam, xã Ngạc Tử, tổng Tử Đôi huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An. Niên đại Chính Hoà thứ 3, 1682. Nội dung đề cập đến việc bầu hậu, gửi giỗ, biểu dương việc thiện, sinh hoạt làng xã.

3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá Phật giáo Hải Phòng

Phật giáo Hải Phòng đã để lại nhiều di sản có giá trị. Trong những năm qua, Giáo hội PGVN thành phố Hải Phòng đã rất quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy những giá trị di sản quý báu của Phật giáo Hải Phòng. Công tác trùng tu, tôn tạo, phục dựng những ngôi chùa cổ, những dấu tích xưa đã được nghiên cứu, nhận diện, bảo tồn. Nhiều hiện vật như tượng Phật, kinh sách, bia ký, chuông... đã được sưu tầm, bảo quản. Một trong số đó là chùa Tháp Tường Long đã được phục dựng lại năm 2017, mang dáng dấp của Tháp Tường Long do vua Lý Thánh Tông xây dựng vào thế kỷ XI. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều giá trị di sản chưa được quan tâm kịp thời, có nguy cơ mai một, nhiều di sản chưa được phát huy.

Chùa Mét, một ngôi chùa cổ được xây dựng cách đây khoảng 700 năm, gần đây mới được quan tâm tu bổ. Nếu không có sự quan tâm kịp thời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng, các cơ quan quản lý, người dân và cộng đồng thì không gian, diện tích của chùa có thể đã bị lấn chiếm. Nhiều pho tượng cổ, bia ký, các hiện vật, di vật có giá trị vẫn chưa được thống kê, phân loại, làm hồ sơ, chưa có sự nghiên cứu một cách đầy đủ về giá trị, ý nghĩa của nó.

Huyện Kiến Thuỵ là quê hương, nơi phát tích của Nhà Mạc, nơi có nhiều ngôi chùa, địa danh và những dấu tích gắn liền với Nhà Mạc như chùa Trà Phương, chùa Hoà Liễu, v.v.. nên rất cần có các nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc về Phật giáo trên địa bàn huyện, về những di sản văn hoá Phật giáo trên địa bàn huyện, thực trạng các di sản văn hoá Phật giáo hiện nay, phương án bảo tồn, phát huy các giá trị các di sản này trong thời gian tới. Đặc biệt, ngôi chùa Trà Phương (Kiến Thuỵ) nơi lưu giữ 2 bảo vật quốc gia cũng chưa được quan tâm tu bổ, tôn tạo xứng tầm.

Đặc biệt, cần tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm các văn bia, các tư liệu thành văn: kinh sách, mộc bản, v.v.. liên quan đến Phật giáo Hải Phòng đang còn được lưu giữ trong các ngôi chùa trên địa bàn thành phố. Chẳng hạn, Chùa Đông Ninh (Tiên Lãng), hiện nay vẫn còn lưu giữ nhiều di vật, tượng thờ mang dấu ấn thời Mạc như 6 thành bậc được chạm hình tượng mây hoá rồng, nghê, gạch vồ chạm rồng. Trong chùa còn giữ được pho tượng đã thời Mạc được chạm trổ tinh xảo2. Chùa Chiêu Tường có Ba pho tượng cổ quý giá, v.v..

_____________________

1 Định Khắc Thuân (1996), Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 93. xem thêm Chu Văn Tuấn, Đời sống Phật giáo thời Mạc, in trong Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo thời Nhà Mạc, Hải Phòng, 2022.

2 Ban Văn hoá Trung ương, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Bảo tồn Di tích, bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thống nhất trong đa dạng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 2023, tr. 339

 

Tạm kết: Trên đây là một vài nét khái quát sơ bộ về di sản văn hoá Phật giáo Hải Phòng, tập trung chủ yếu vào di sản văn hoá vật thể của Phật giáo Hải Phòng như kiến trúc Phật giáo (các ngôi chùa), các hiện vật (các pho tượng, chuông, bia ký, v.v..). Mặc dù bài viết mới mang tính chất khái quát nhưng cũng cho chúng ta thấy được những dị sản văn hoá Phật giáo vô cùng phong phú của Phật giáo Hải Phòng nói riêng, Phật giáo Xứ Đông nói chung. Những di sản này chứa đựng những giá trị nhiều mặt mà chúng ta vẫn chưa khai thác hết. Ngoài ra, vẫn còn rất nhiều khía cạnh, phương diện khác của di sản văn hoá Phật giáo Hải Phòng mà bài viết vẫn chưa có dịp đề cập như nghệ thuật kiến trúc, các hệ thống hoành phi, câu đối, các mảng chạm khắc mỹ thuật, các kinh sách Phật giáo, mộc bản, sắc phong, v.v..

Có thể nói, di sản văn hoá Phật giáo Hải Phòng cho đến nay vẫn chưa được nhận diện và nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống. Mặc dù hiện nay, các di sản này đã được quan tâm, chú ý bảo tồn, phát huy, nhưng vẫn còn nhiều di sản chưa được quan tâm đúng mức, đang có nguy cơ mai một. Đây không chỉ là vấn đề đặt ra của Phật giáo Hải Phòng, mà còn là vấn đề đặt ra đối với Phật giáo Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Ban Văn hoá Trung ương, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Bảo tồn Di tích, bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thống nhất trong đa dạng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 2023

2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Hải Phòng, Hội khoa học Lịch sử Hải Phòng, Di sản văn hoá Phật giáo Xứ Đông, Kỷ yếu Hội thảo, Hải Phòng, 2013.

3. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Hải Phòng, Phật giáo thời nhà Mạc, Kỷ yếu Hội thảo, Hải Phòng, 2020.

4. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng (2022), Chùa Hải Phòng xưa và nay, tập 1, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng

5. Giáo hội PGVN TP Hải Phòng, Hội Khoa học Lịch sử TP Hải Phòng (2022), Lịch sử Phật giáo thành phố Hải Phòng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội

6. Lê Mạnh Thất, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999

7. Thích Đức Thiện, Đinh Khắc Thuân (đồng chủ biên), Văn bia Phật giáo Việt Nam, tập 3, Văn bia Phật giáo thời Lê sơ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017

8. Đinh Khắc Thuân (1996), Văn bia thời Mạc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

9. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2014), Phật giáo thời Hậu Lê, Nxb Tôn giáo, Hà Nội

10. Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội (2015), Vương triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

Nguồn: Bài: Bảo tồn, phát huy di sản Phật giáo thành phố Hải Phòng in trong “Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo xứ Đông trong dòng chảy văn hóa dân tộc tr57 - tr64”

Tác giả: admin

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây