Chức vụ phẩm tước của bộ máy cai trị xưa nước ta
- Thứ năm - 18/09/2025 21:54
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Vấn đề chức vụ, phẩm tước của bộ máy cai trị xưa ở nước ta thì chỉ từ đời vua Lê Thái Tông về sau mới đặt đầy đủ, ngày nay căn bản còn lưu giữ được tư liệu chính thống. Tư liệu chức tước từ đời Đinh, Tiền Lê trở về trước không còn được bao nhiêu. Những chức vụ, phẩm tước của các nhân vật chỉ có ở thần phả - số lớn được soạn vào đời Lê Trung Hưng thì người soạn có lẽ dựa vào dân khai báo hoặc dựa vào quan chế của các triều đại sau mà ghi chép nên khi khai thác sử dụng cần chú ý đến chức, tước của nhân vật. Ví dụ: Trình Quốc Công thì Quốc Công là tước, Diệu nghệ bá thì bá là tước. Binh bộ thượng thư thì thượng thư là chức. Gặp trường hợp một người giữ nhiều chức như Vũ Hộ: Đồng đức tán trị công thần Tây quân tả đô đốc chưởng phủ sự thì tra lần lượt từng chữ: Đồng đức tán trị công thần là mỹ hiệu, Tây quân là tên một quân doanh, Tả đô đốc, chưởng phủ sự là hai chức.
1- Án sát hay án sát sứ: Quan tỉnh, giúp quan chủ tỉnh coi về hình luật kiêm cai quản trạm dịch, biên tuyến. Chức này do vua Minh Mạng đặt năm Tân mão (1831), hàm Chánh tứ phẩm.
2- Bố chính hay Bố chính sứ: Quan tỉnh giúp quan chủ tỉnh coi việc thuế khóa, đinh điền, truyền đạt chính sách, chỉ lệnh... Chức này do vua Minh Mạng đặt năm Tân mão (1831).
3- Bạt hải Hữu tướng quân: (Xem chức Tướng quân)
4- Bình chương quân quốc trọng sự: Chức quan đầu triều đặt từ năm Quảng Hựu thứ ba (1088) đời vua Lý Nhân Tông. Các đời sau như Trần, Lê, Mạc đều theo. Chức này có khi thêm các nhiệm vụ liên quan nên còn gọi Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự (một chức của Lý Thường Kiệt), đồng trung thư minh chính Bình chương sự (một chức của Đỗ Anh Vũ). Khai phủ nghi đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự (một chức của Đinh Liệt... Phạm Gia Mô, khai quốc công thần triều Mạc cũng được ban chức này. Bình Chương có nghĩa sắp xếp công việc được tốt.
5- Bá: Một tước hàng thứ ba trong 5 tước (Công, hầu, bá, tử, nam) của nhà vua ban cho người có nhiều công lao, tài năng. Nguyễn Trãi lúc đầu được phong tước bá Tán trù, chữ Tán trù có nghĩa là công lao giúp nhà vua trù tính mưu kế. Nghệ nhân Tô Phú Vượng được phong tước bá Diệu Nghệ có nghĩa là nghề khéo léo tinh xảo.
6- Bồi tụng: Chức quan ở phủ đường chúa Trịnh đặt đời Kính tông năm đầu niên hiệu Hoằng Định (1600-1619), chỉ dưới chức Tham tụng là quan đứng đầu phủ đường, ngang hàng Tể tướng bên triều đình vua Lê. Nhưng chức Tể tướng lúc ấy chỉ là hư vị, quyền hành đều do phủ chúa Trịnh với chức Tham tụng đứng dầu, thứ đến Bồi tụng.
7- Cấp sự trung: Chức quan thứ hai, sau chức Đô cấp sự trung, hàm chánh bát phẩm, đặt từ đời vua Lê Nghi Dân (1454 - 1459) sau vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ hai (1471) kiện toàn bộ máy, bên cạnh 6 bộ thượng thư đặt 6 khoa tương ứng. Khoa là cơ quan kiểm sát về phương diện chuyên môn của mỗi bộ tương ứng. Thí dụ “Bộ Lại thăng bổ lầm người thì khoa lại được phép bác bỏ. Bộ Lễ nghi chế không hợp lệ thì khoa lễ có quyền hặc tâu...” (Lời dụ của Lê Thánh Tông khi ban hành Hoàng Triều quan chế).
8- Chưởng quản binh quyền nội bộ:
Theo nghĩa thì là nhiệm vụ nắm và quản lý bộ máy và quân đội ở trong triều. Thần phả đền Nghè ghi câu này, nhiều người lầm tưởng là chức tước của nữ tướng Lê Chân. Tương tự nhiều người lầm chữ: “Hải tần phòng thủ” vốn chỉ có nghĩa là nhiệm vụ canh phòng ven biển. Từ 4 chữ ấy, mà suy ra tên gọi thành phố Hải Phòng là không đúng.
9- Chỉ huy sứ: Một chức quan võ đặt từ năm Thiên Thuận thứ nhất (1128) đời vua Lý Thần Tông. Các đời Trần, Lê về sau vẫn có. Theo quan chế đời Lê, chỉ huy sứ hàm Chánh tứ phẩm.
10- Chinh khấu Đại tướng quân: Xem chú thích Đại tướng quân.
11- Chưởng cấm binh: Nắm giữ đội quân canh giữ bảo vệ nhà vua, bảo vệ cung cấm. Cấm binh thì có nhiều tên gọi, năm Thiên Phúc thứ 7 (986) vua Lê Đại Hành đặt cấm binh (tức vệ binh) gọi là Thân quân. Năm Thiên Thành thứ 1 (1028) đặt 10 vệ điện tiền cấm quân, đóng trại vòng quanh trong cấm thành, gọi chung là Thập vệ. Đời Hậu Lê quy định, người có chức cao mà trông coi nha thấp hơn thì gọi là “Chưởng”.
12- Chưởng quản Hồng Châu: Nắm giữ cai quản châu Hồng. Nhiệm vụ này coi như có chức trấn thủ, tổng đốc đời Nguyễn. Còn châu Hồng là một châu lớn gồm địa bàn tỉnh Hải Dương, thành phố Hải Phòng (trừ hai huyện đảo) và huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh nay.
13- Chính tín cư sĩ: Nghĩa đen là vị cư sĩ tin theo chính đạo. Cư sĩ là người nghiên cứu đạo phật, là nhà nho nhưng ở ẩn không ra làm quan.
14- Dục Mỹ hầu: Hầu là tước cao, chỉ sau tước công, trên các tước bá, tử, nam. Người có tước hầu thường được ban các chữ kèm theo như: Dục Mỹ (hầu), Dương Xuyên (hẩu), Văn Đẩu (hầu)... theo phẩm chất, quê quán, tài năng mà đặt.
15- Dương Xuyên hầu: Xem chú thích trên.
16- Đại hành khiển: Chức quan to đứng đầu văn ban của triều đình, ngang với Tể tướng, trông coi việc quân dân, kiện tụng... Chức này đặt đời Lê Thái Tổ, đến đời Lê Thánh Tông, sửa lại quan chế mới bỏ chức Đại hành khiển (xem thêm: Hành khiển).
17- Đại tư mã: Một trong ba chức quan to nhất triều dình, thường gọi là Tam tư: Tư đồ, Tư mã, Tư không. Chữ Đại dùng để gia thêm mà thôi. Theo sử, nước ta chỉ đời Trần mới thấy có người được ban chức này như Trần Khiên Ngô được vua Nghệ Tông tặng chức Tư mã. Lê Thái Tổ đặt đủ 3 chức: Tư đô, Tư mã, Tư không. Khi sửa quan chế, Lê Thánh Tông bỏ 3 chức này. Đời Lê Trung Hưng, khôi phục 3 chức này, nhưng dùng để thêm hàm cho các quan đại thần giữ chức quan trọng.
18- Đại tướng quân: Chức quan võ cao cấp đặt từ đời Lý. Bình khấu là - nói về nhiệm vụ dẹp giặc cướp.
19- Đô đài lang: Theo nghĩa chữ đoán là chức quan đứng đầu ngự sử đài. Chức này có nhiệm vụ đàn hặc (phê phán) các quan, can gián nhà vua, bàn về chính sự, xét hỏi các vụ kiện về người quyền quý ở kinh đô ức hiếp dân lành...
20- Đô đốc: Chức quan võ cao cấp, đặt đời Lê Thái Tổ, hàm tòng nhất phẩm. Chức này có tả Đô đốc coi quân các vệ ngự tiền, thiết đột. Nếu coi quân ở các đạo (xứ) thì thêm chữ Đồng tri (Đô đốc Đồng tri).
21- Đô đốc chỉ huy sứ: Xem các chức Đô đốc, chỉ huy sứ…
22- Đô ngự sử: Chức quan đứng đầu Ngự sử đài đặt từ đời Lê Thái Tổ, lúc đầu gọi là Thị Ngự sử. Chức này năm Thiên Ứng thứ 19 (1250) Trần Thái Tông đã đặt, nhưng gọi là Ngự sử đại phu (xem thêm: Đô đài lang)
23- Đô úy: Chưa rõ chức vụ, phẩm trật.
Đô úy Thượng phẩm Đại liêu là chức tước của Lại Thanh thì sử có chép. Ngoài các tước vương, công, hầu, nhà Lý còn có những bậc đại liêu ban, nội thượng chế và minh tự để thưởng cho người có công thời Trần thấy còn giữ các hàm nội minh tự, thượng phẩm.
24- Đồng đức tán trị công thần: Đây là những tên hiệu đẹp để vinh phong cho các công thân gồm 24 chữ: Suy trung, dực vận, tá lý, tán trị, dương võ, kính thận... đồng dức, khiên cung, kiệt tiết...
Bắt dầu phong có 2 chữ rồi đến 8 chữ, người nào xứng với chữ nào thì phong cho chữ ấy.
25- Đông các hiệu thư: Chức quan văn hàm chánh lục phẩm, do Lê Thánh Tông đặt, có trách nhiệm xem xét lại những bài chế cáo, thơ ca do Đông các Đại học sĩ phụng mệnh vua soạn. Đông các Đại học sĩ là quan đứng đầu tòa Đông các.
26- Điện tiến đô chỉ huy sứ: Chức quan võ hàm chánh tam phẩm chỉ huy các vệ quân điện tiền bảo vệ kinh đô.
27- Giám nghị đại phu: Chức quan văn thấy có từ đời Trần, có nhiệm vụ đàn hặc các quan, can gián nhà vua. Quan chế nhà Trần ghi “Về hàng văn thì có những chức thượng thư 6 bộ, tả hữu bộc xạ, tả hữu ty lang trung, tả hữu gián nghị đại phu…
(Xem thêm: Ngự sử)
28- Giám sinh Quốc tử giám: Sinh viên trường Quốc tử. Quốc tử giám là trường Đại học quốc gia thời phong kiến, đào tạo tiến sĩ các loại.
29- Hải quốc công: Quốc công là tước cao bậc nhất vua ban cho công thần. Trong 5 tước công, hầu, bá, tử, nam thì tước công lại chia ra Quốc công và Quận công. Theo lệ cũ tước công một chữ như Hải quốc công, Trình quốc công, Trung quốc công to hơn tước công 2 chữ như Kiến Thụy công, Diên Khánh công, Bằng Lĩnh công.
30- Hỏa đầu ngự long quân: Chức quan võ cao cấp đời Lý. Theo sử, năm Thiên Thuận thứ nhất (1128) Lý Thần Tông thăng bậc, tước cho văn võ có các hiệu: chỉ huy sứ, nội vũ vệ, nội hỏa đầu. Còn ngự long quân theo nghĩa chữ là cấm quân bảo vệ cung điện nhà vua.
31- Hoàng Giáp: Tên một học vị tiến sĩ thời phong kiến. Những thí sinh thi Hội trúng cách sẽ được vào thi Đình để phân loại 3 giáp..
Đệ nhất giáp gồm: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Đệ nhị giáp gồm : Hoàng giáp còn gọi là tiến sĩ xuất thân.
Đệ tam giáp : Đồng tiến sĩ xuất thân.
32- Hiệu lý hàn lâm: Chức quan ở viện hàn lâm hàm chánh thất phẩm giữ việc soát xét, chú giải, chỉnh lý các chiếu chỉ của nhà vua trước khi ban hành.
33- Hoằng tín đại phu: Một chức nhàn tản, không có chức trách cụ thể, hàm chánh ngũ phẩm dùng để ban cho con cháu người có phẩm tước cao, quan trông coi các công xưởng, kho tàng.
34- Hữu thị lang: Đời Hậu Lê mỗi bộ đặt chức Thượng thư hàm tòng nhị phẩm đứng đầu, có Tả và Hữu thị lang hàm tòng tam phẩm giúp đỡ, đến đời Nguyễn thì giúp việc thượng thư là Tham tri rồi mới đến Thị lang. Như vậy về đại thể chức Thị lang trước Nguyễn như chức Thứ trưởng. Đến đời Nguyễn như chức Vụ trưởng ngày nay.
35- Kinh lược sứ: Chức võ quan cao cấp đứng hàng đầu các quan coi việc binh ở các lộ châu... Đời Trần “Quan coi binh ở ngoài thì có các chức Kinh lược sứ, phòng ngự sử, Thủ ngự sứ...” Đến đời Nguyễn chức Kinh lược sứ thường dùng đại thần thạo việc làm đặc phái viên của vua được trao quyền rộng rãi.
36- Phó đô hỏa đầu: Đời Lý có đặt các hỏa đầu là đơn vị quân đội. Việt sử thông giám cương mục dẫn theo Lê Quý Đôn: Hỏa đầu cũng như đội trưởng đời Lê. Như vậy có lẽ 10 hỏa đầu họp lại thành một đô (đoán dựa theo nhà Lý có chức thập hỏa thư gia) do đô trưởng, phó đô cai quản.
37- Phó đô lang tướng: Đây là chức của Vũ Hải do quyên góp lương tiền cho quân, lại có đội dân binh nên được Hưng Đạo Vương phong. Theo sử, vua cho Hưng Đạo Vương được quyền ban chức tước từ minh tự trở xuống, tước hầu thì phong trước tâu vua sau. Nhưng ông khiêm tốn chỉ phong Giả lang (cũng đọc lương) tướng mà thôi. Như vậy, Vũ Hải có chức chỉ huy dân binh là phó đô và chức lang tướng.
38- Phó đô ngự sử: Chức quan thứ hai sau Đô ngự sử, hàm Chánh tứ phẩm. Xem thêm: Đô đài lang, Ngự sử đài.
39- Phó tri Hộ phiên: Đời Lê các bộ thượng thư đều có cơ quan thường trực là tư vụ sảnh (như văn phòng ngày nay) do viên Tư vụ hàm chánh lục phẩm phụ trách. Ngoài ra còn có các phiên lo việc thuế khóa, đinh điền, chi tiêu, lương bổng, kho tàng...
Vậy phó tri ở đây là cấp phó giữ một nhiệm vụ cụ thể nêu trên của bộ.
40- Phụng thị dư phó cai hợp tả phiên: Chưa rõ
Theo sử, niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) dã đặt các cục, ty, thự, sở, cung chưởng, khố sự, y viện với các chức vụ cai hợp cũng nằm trong số chức danh các nha môn trên. Vì ở thể lệ phong tặng, cấp tuất năm Bảo Thái 3 (1722) có ghi: “Lại định lệ phong tặng cấp tuất có các viên chầu hầu (phụng thị) đương làm việc, chiếu theo lệ cũ mà châm chước, theo thứ bậc khác nhau... Phàm cấp tiền tuất cho các viên chầu hầu thì: phó tri câu kê được 40 quan tiền gián, thiêm tri câu kê 25 quan, thị nội văn chức 30 quan, cai hợp và phó cai hợp 25 quan...”.
Những chức vụ chầu hầu (phụng thị) được cấp tiền tuất 25 quan còn có: Ngự y phó, thị xa, thị trù, đội trưởng, đội phó trưởng, ty phó giáo phường...
Từ lệ này có thể suy ra phẩm trật, nhiệm vụ của Tô Phú Vượng.
41- Tả hữu phúc tâm: Chức quan trong triều do Lý Thái Tổ đặt năm Thuận Thiên thứ nhất (1010), cũng là một chức quan trọng.
42- Tả (hữu) đô đài: xem chữ Đô đài lang, Đô ngự sử.
43- Tả tuyên uý: Chức quan cai quản ở ngoài. Đời Trần đặt gồm: quan sát sứ, phòng ngự sứ, tuyên úy sứ, an phủ sứ và chức nhiệm ở trấn, (lộ) châu, huyện.
44- Tả tham nghị: Chức quan dưới thời thuộc Minh làm việc ở ty bố chính; đời Hậu Lê đặt chính sự viện để giữ việc then chốt giúp vua. Viện này có các chức Tham tri chính sự, tham nghị, đồng tham nghị. Có thể đời Trần đã có chức này, nhưng chưa rõ chức trách. Đời Lê là quan chức hàng thứ 3 ở thừa ty các đạo, hàm tòng ngũ phẩm.
45- Tả thị lang: Xem Hữu Thị lang.
46- Tả thừa ty niết: Nha lại làm việc ở ty niết tức dinh án sát cấp tỉnh.
47- Tả thừa tướng: Quan đầu triều, giúp vua điều hành hai ban văn, võ. Chức Thừa tướng có khi đặt 2: tả và hữu. Thừa tướng còn gọi là Tể tướng, Tướng quốc.
48- Tây quân tả đô đốc chưởng phủ sự:
Theo quan chế đời Lê, đời Mạc ở triều đình đạt 5 phủ đô dốc (trung, đông, tây, nam, bắc). Mỗi phủ có các chức tả đô đốc, hữu đô đốc, đô đốc đồng tri, đô đốc thiêm sự chuyên nắm việc quân. Sau lại đặt thêm các quan Chưởng phủ sự, thự phủ sự dùng các đại thần thân thuộc hay có công to giữ hai chức trên đứng đầu văn bang bàn bạc các việc quan trọng quốc gia.
48- Thái bảo: Đời Lý đã đặt, lúc đầu chỉ là danh hiệu, sau giao cho thực quyền. Đời Trần theo như thế. Đời Lê Hồng Đức (1470-1498) xếp các chức ấy vào hàm chánh nhất phẩm. Đời Trung hưng vẫn giữ hàm cao nhưng không trao thực chức. Thái sư, thái phó, thái bảo thường gọi là Tam thái hay Tam công là chức hàm cao nhất, như cố vấn cấp cao nhất ngày nay của nước ta.
49- Thái học sinh: Tên học vị tiến sĩ đời Trần (không phải theo nghĩa đen là sinh viên trường Thái học).
50- Thái phó: Chức cao cấp, đứng thứ nhì trong hàng Tam thái. Xem thêm: Thái bảo.
51- Thái sư: Chức quan cao cấp, đứng đầu hàng Tam thái (Xem thêm Thái bảo).
52- Thái tử Thái bảo: Chức quan cao cấp hàng thứ ba trong hàng Tam thái, hàm tòng nhất phẩm. Các vị này có nhiệm vụ hầu cận, giúp đỡ cho Thái tử - tức là con vua đã được chọn để nối ngôi cha sau này.
53- Thái úy: Chức quan võ cao cấp đứng đầu quân đội, hàm chánh nhất phẩm. Chức này đời Lý đã đặt với hai chức Phụ quốc thái úy nắm quyền Tể tướng. Thái úy để quản lý, chỉ huy toàn quân. Các triều đại Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng đều lấy Thái uý là chức trọng thần và nắm thực quyền. Từ niên hiệu Quang Hưng (1578-1560) trở đi chỉ dùng làm hàm phong thêm cho võ tướng.
54- Thái vương: Cũng như Đại vương, tước cao nhất của nhà nước phong kiến dùng để phong cho họ gần của vua hoặc người có công cao đặc biệt.
55- Thị thư: Chức quan ở viện hàn lâm, hàm Chánh lục phẩm, giữ việc biên soạn các văn thư.
56- Thứ sử: Quan coi một châu thời Bắc thuộc, đặt từ đời Hán. Họ chiếm nước ta, nhập vào bản đồ Trung Quốc, gọi nước ta. là Giao châu, cử thứ sử sang cai trị. Sau nhiều nhà nho cũng dùng chữ thứ sử để chỉ chức vụ tương đương. Việt sử lược có chép việc mùa đông năm Bính Thân (1056) Lý Thánh Tông “đổi chức đại thủ lĩnh làm thứ sử”.
57- Thượng thư: Chức quan đứng đầu các bộ (Lại, binh, hộ, lễ, hình, công) hàm tòng nhị phẩm.
Đời Lý đã đặt chức Thượng thư, nhưng đến đời Lê Nghi Dân (1454-1459) mới đặt đủ 6 bộ. Các đời sau đều theo.
58- Tiết chế: Chức trọng quyền cao ở trên các đại thần văn võ. Chức tiết chế đời Trần đã đặt; vua Nhân Tông, khi giặc Nguyên - Mông sang xâm lấn, mới cử Trần Quốc Tuấn giữ chức này để tổng chỉ huy các lực lượng võ trang. Năm Lê Hồng Đức khi vua Lê Thánh Tông đi đánh AiLao cũng đặt chức này, nhưng từ đời Lê Chiêu Tông (1516-1523) về sau chức tiết chế nắm quyền chỉ huy các quân thủy bộ và cả các xứ nên quyền hành rất lớn.
59- Tướng quân: Chức quan võ, đặt từ đời Đinh, Lê Hoàn giữ chức Thập đạo tướng quân, tức là chỉ huy đội quân cả nước. Đời Trần đặt các chức Phiêu kỵ tướng quân, Trấn quốc tướng quân, Cấm vệ tướng quân, Tướng quân các vệ. Lê Thái Tổ cũng đặt các Thượng tướng quân, Đại tướng quân. Như vậy từ đời Đinh đến đầu đời Lê, chức tướng quân là chức trọng. Đời Lê Hồng Đức lại sửa quan chế mới, bỏ chức tướng quân, chỉ dùng để ban cho quan võ không giữ thực chức. Từ khi Trung hưng chỉ đặt chức Trấn điện tướng quân, hàm chánh ngũ phẩm để coi giữ kho chứa đồ nghi trượng của cấm quân.
Những chữ Bình Khấu, Chinh Man, Chinh Tây... đặt trước chức tướng quân chỉ nhiệm vụ của viên tướng ấy (Bình Khấu = dẹp giặc, Chinh Man: đánh bọn mọi rợ. Chinh Tây: đánh dẹp miền tây...).
Nguồn bài viết in trong sách: “Nhân vật lịch sử Hải Phòng
Nxb Hải Phòng