ĐÀO CÔNG CHÍNH - DANH NHÂN LỖI LẠC NƯỚC TA THẾ KỶ XVI
- Thứ năm - 23/01/2025 20:54
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Đào Công Chính sinh năm 1639 người trang Cối Khê thường gọi làng Cõi, nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Khi nhỏ tên là Đào Dĩnh Đạt, nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ nôn địa phương có câu: “Ông Cõi 13, Thanh Hà 14”. Năm 13 tuổi (1631) thi Hương đỗ Hương Cống, khoa Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661) đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ Đặng Công Chất đỗ Trạng Nguyên. Năm này ông mới 23 tuổi, làm quan trải thăng từ Thị thư viện Hàn Lâm, Hữu Thị lang bộ Lại. Kinh diên giảng quan (chức quan giảng sách cho nhà vua).
Ngô Đăng Lợi
Hội Sử học Hải Phòng
Đào Công Chính sinh năm 1639 người trang Cối Khê thường gọi làng Cõi, nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Khi nhỏ tên là Đào Dĩnh Đạt, nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ nôn địa phương có câu: “Ông Cõi 13, Thanh Hà 14”. Năm 13 tuổi (1631) thi Hương đỗ Hương Cống, khoa Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661) đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ Đặng Công Chất đỗ Trạng Nguyên. Năm này ông mới 23 tuổi, làm quan trải thăng từ Thị thư viện Hàn Lâm, Hữu Thị lang bộ Lại. Kinh diên giảng quan (chức quan giảng sách cho nhà vua).Hội Sử học Hải Phòng
Tháng 5 -1679 sứ bộ triều Lê - Trịnh sang trấn cống vua nhà Thanh và báo tang vua Lê Huyền Tông. Sứ bộ do tiến sĩ Hồ Sĩ Dương làm Chánh xứ, Đào Công Chính, Vũ Công Đạo, Vũ Duy Hát làm Phó sứ. Do hoàn thành tốt nhiệm vụ cả đoàn đều được khen thưởng.
Tháng 7/1677, Đào Công Chính viết tờ Khải trình chúa Trịnh Tạc có ghi:
“Dọc đường có làm thơ xướng họa mua vui thưởng ngoạn phong cảnh, tiếp đón quốc khách...”
Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu một cuốn sách viết tay ký hiệu VHV 2168 gồm 72 trang, khổ 26x15 ghi 2 tập thơ đi sứ một của Đào Công Chính, một của Nguyễn Công Hãng có 19 tờ, 38 trang, sưu tập 70 bài của Đào Công Chính được các nhà thơ, các nhà phê bình văn học đánh giá cao. Nhưng trước tác của Ngài đáng kể nhất là bộ sách Bảo Sinh Diên Thọ Toản Yếu, soạn giả đã dày công sưu tầm, phân tích, tổng hợp nhiều kiến giải của các bậc Y học xưa như: Tuấn Sinh, Đạt Sinh. Bản thảo Cương mục, cùng những phép rèn luyện thân thể của những người theo đạo Lão như Đào Hoằng Cảnh, Lã Đồng Tân, Trần Đoàn...
Một vài nơi còn giữ được cuốn sách quý này. Đào Công Chính cùng Hồ Sĩ Dương (chủ biên) Đặng Công Chất soạn bộ sách lịch sử: Trùng San Lam Sơn thực lục. Sách này vốn là do vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) soạn, sau bị mất, chỉ còn bản sao có nhiều sai sót, vua giao cho các ông hiệu đính, bổ sung. Sau khi soạn xong dâng vua xem, vua ban tên sách là: Trùng San Lam Sơn Thực Lục, sai khắc ván in lưu hành rộng rãi.
Bản in này, các sử gia Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, đều được đọc đã giới thiệu trong thiên Nghệ văn chí của mình. Thư viện Khoa học xã hội còn giữ được 3 bản chép tay ký hiệu : A 26, A2369, A2795. Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thanh Hóa cũng giữ lại một bản, ông Nguyễn Diên Niên đã dịch, khảo dị, chú thích. Theo tư liệu điều tra điền dã của Hội Sử học Hải Phòng, Chi hội Sử học huyện Vĩnh Bảo cho biết: Khi đã về hưu ở tuổi 80, cụ Bảng vẫn mở trường dạy chữ, dạy nghề nuôi trồng cây con làm thuốc, Cụ vẫn cùng môn sinh thăm khám chữa bệnh cho dân, nhất là trẻ mồ côi, người tàn tật, người nghèo khó. Theo đề nghị của Hội Sử học Hải Phòng, UBND xã Cao Minh, bà Vũ Thị Tâm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch thành phố đã dành một lô đất rộng, màu mỡ của lang Cõi để trồng cây thuốc.
Điều hết sức lạ là trong văn bản về đạo Mẫu và lên đồng cũng có 2 bài Bách Hoa văn và Bách Dược luyện văn nói về giá trị cây thuốc Nam:
1. Bách Hoa văn
Phất phiên hoa tín nhất phiên tân
Thực tại Đông quân điền hóa thần
Thập nhị tiên nương hoàn noãn tọa
Bất tri nguyên thị thử hoa thần
Mừng nay gặp hội phân xuân
Kim ngân thanh tịnh trước sân lạy quỳ
Sai Bách hợp tức thì giáng phó
Quế với Hòe vàng đỏ chen vai
Báo tin đã có hoa mai
Hoa Đào, hoa Mận những ai đó giờ
Mầu Lan Huệ phất phơ buồn rủ
Gọi Hải đường giấc ngủ xuân tiêu
Nữ trinh sao khéo mỹ miều
Phèn đen sắc nhuộm càng yêu vì tình
Vẻ Kim phượng bên mình châu báu
Với Kim tiên tranh đấu mùi hương
Lòng Quỳ xin dãi bóng dương
Tứ vi không để giọt sương dãi dầu
Ngọc trâm dắt trên đầu đã sẵn
Gót kim tiên thơ thẩn vườn hoa
Sánh Thiên hương tuyết trắng mầu lê
Đỗ Quyên ánh ỏi bên hè
Mẫu Đơn sắc tía lại khoe sắc vàng
Hoa Dâm Bụt cành sương theo nắng
Bụi Đài Bí trải nắng từng phen
Hoa Cam không bén tay hèn
Hoa hồng, hoa cậy phẩm tiên trên trời
Đáo Hồng Bạch khác với trầu phẩm
Đóa Phù Dung đỏ thắm không phai
Trước nhà thoang thoảng hoa Nhài
Hoa Riềng, hoa Huệ áp nài ưu duyên
Mầu thanh lịch hoa Huyên điểm xuyết
Hoa Móng Rồng tươi tốt phân phi
Chi Lăng hài Hải Đường trì
Hoa Sưa, hoa Muống đông ly sẵn sàng
Hoa Đỗ Nhược mấy hàng mưa móc
Đầy vườn xuân hoa Mộc, hoa Ngâu
Hoa Sum đỏ chói một mầu
Hoa Dương lớp đất, hoa Dâu áp thần
Hoa Cẩm Dời càng thêm cảnh sắc
Hoa Xương Bồ rất mực thanh tao
Tử Tô, Kinh Giới cũng hào
Hoa Vừng, hoa Đại ngạt ngào đưa hương
Dâng Vạn Thọ cát tường sớm ứng
Dưới thềm loan sắc nức hoa tiêu
Dạ Hương mấy đóa yêu kiều
Hoa Na, hoa Lựu gợi nhiều thanh tân
Duyên kim cải đôi lần hương lửa
Mãn Đường hồng hớn hở hoa sung
Đeo mang đà trót hoa Bồng
Hợp tan nay lại duyên mong Tấn Tần
Hoa Bươm bướm chiều xuân giấc mộng
Hoa sắn bím sao giọng trêu ngươi
Hoa Thanh hoa Khế thêm tươi
Cài hoa Cam Cúc miệng cười xinh xinh
Hoa Thược Dược ra tình réo rắt
Rủ rê quan mừng mặt đông quân
Móng Tay hoa đã đến tuần
Phượng tiên cùng với kỳ lân ứng điềm
Hoa Bách nhật êm êm giấc ngủ
Hoa Cẩm Cù (cầu) đầm ấm hơi dương
Dành Dành càng nức mùi hương
Hoa Xoan, hoa Táo bên đường xúm quanh
Hoa Thiên Lý trên cành phơi phới
Ngọ thời vừa tới thu trung
Phượng Sào đã kén bao bông
Hoa Liên, hoa Ngón cùng trong hoa thần
Đồng Nam nữ thêm xuân bái hiếu
Chúc mừng sinh thọ tiến vô cương
Trầu cau một nén tâm hương
Trân châu một bức linh trương để truyền
Bài thơ linh ứng của Thánh Mẫu
Thực tại Đông quân điền hóa thần
Thập nhị tiên nương hoàn noãn tọa
Bất tri nguyên thị thử hoa thần
Mừng nay gặp hội phân xuân
Kim ngân thanh tịnh trước sân lạy quỳ
Sai Bách hợp tức thì giáng phó
Quế với Hòe vàng đỏ chen vai
Báo tin đã có hoa mai
Hoa Đào, hoa Mận những ai đó giờ
Mầu Lan Huệ phất phơ buồn rủ
Gọi Hải đường giấc ngủ xuân tiêu
Nữ trinh sao khéo mỹ miều
Phèn đen sắc nhuộm càng yêu vì tình
Vẻ Kim phượng bên mình châu báu
Với Kim tiên tranh đấu mùi hương
Lòng Quỳ xin dãi bóng dương
Tứ vi không để giọt sương dãi dầu
Ngọc trâm dắt trên đầu đã sẵn
Gót kim tiên thơ thẩn vườn hoa
Sánh Thiên hương tuyết trắng mầu lê
Đỗ Quyên ánh ỏi bên hè
Mẫu Đơn sắc tía lại khoe sắc vàng
Hoa Dâm Bụt cành sương theo nắng
Bụi Đài Bí trải nắng từng phen
Hoa Cam không bén tay hèn
Hoa hồng, hoa cậy phẩm tiên trên trời
Đáo Hồng Bạch khác với trầu phẩm
Đóa Phù Dung đỏ thắm không phai
Trước nhà thoang thoảng hoa Nhài
Hoa Riềng, hoa Huệ áp nài ưu duyên
Mầu thanh lịch hoa Huyên điểm xuyết
Hoa Móng Rồng tươi tốt phân phi
Chi Lăng hài Hải Đường trì
Hoa Sưa, hoa Muống đông ly sẵn sàng
Hoa Đỗ Nhược mấy hàng mưa móc
Đầy vườn xuân hoa Mộc, hoa Ngâu
Hoa Sum đỏ chói một mầu
Hoa Dương lớp đất, hoa Dâu áp thần
Hoa Cẩm Dời càng thêm cảnh sắc
Hoa Xương Bồ rất mực thanh tao
Tử Tô, Kinh Giới cũng hào
Hoa Vừng, hoa Đại ngạt ngào đưa hương
Dâng Vạn Thọ cát tường sớm ứng
Dưới thềm loan sắc nức hoa tiêu
Dạ Hương mấy đóa yêu kiều
Hoa Na, hoa Lựu gợi nhiều thanh tân
Duyên kim cải đôi lần hương lửa
Mãn Đường hồng hớn hở hoa sung
Đeo mang đà trót hoa Bồng
Hợp tan nay lại duyên mong Tấn Tần
Hoa Bươm bướm chiều xuân giấc mộng
Hoa sắn bím sao giọng trêu ngươi
Hoa Thanh hoa Khế thêm tươi
Cài hoa Cam Cúc miệng cười xinh xinh
Hoa Thược Dược ra tình réo rắt
Rủ rê quan mừng mặt đông quân
Móng Tay hoa đã đến tuần
Phượng tiên cùng với kỳ lân ứng điềm
Hoa Bách nhật êm êm giấc ngủ
Hoa Cẩm Cù (cầu) đầm ấm hơi dương
Dành Dành càng nức mùi hương
Hoa Xoan, hoa Táo bên đường xúm quanh
Hoa Thiên Lý trên cành phơi phới
Ngọ thời vừa tới thu trung
Phượng Sào đã kén bao bông
Hoa Liên, hoa Ngón cùng trong hoa thần
Đồng Nam nữ thêm xuân bái hiếu
Chúc mừng sinh thọ tiến vô cương
Trầu cau một nén tâm hương
Trân châu một bức linh trương để truyền
Bài thơ linh ứng của Thánh Mẫu
(trích trong Cát Thiên Tam Thế).
2. Bách Dược luyện văn (Bài văn luyện trăm thứ thuốc)
Cõi nhân trần ngỏ lòng chí thực
Cửa thiên tiên nhớ sức uy linh
Bách đàn tiên cáo huyền minh
Biết có lấy đức hoàng tinh kẻ mà
Lưới hố ma bức tường vây kể
Cờ Lan mao tùy địa len vào
Rõ ràng đã giáp áo bào
Giáo Ba kích, mũi vệ mâu ai bằng
Gậy Hổ trượng, quỷ tăng thanh giải
Gươm mã đào, mãi đại hoàng kinh
Cổ bí lẫn tiếng kinh linh
Mễ diêm ngũ đậu khao binh trích tà
Tướng ngũ hành hỏa ma, mộc miết
Thổ phục linh, kim tích, thủy ngân
Cùng là thù chí, thủy càn
Dự chi năm tướng, phục thần ai đang
Tướng ngũ linh tam hoàng trung đội
Xích thạch tri, thanh đại, thanh tương
Bạch vi hắc sừu, hắc khương
Phá tam ô tặc, mở được lục lâm
Tướng nũ vị khổ tâm can toại
Cùng mô hàm với lại tân di
Toan tương, toan táo lệ chi
Vân đăng giá vũ đông thì giáng chân
Đông phương thần chính đông bích thổ
Quân bách thiên toái bổ thiên ma
Tây phương hiện tượng tây qua
Nam sài, bắc đẳng ấy là tứ phương
Dương xuân tiết một trường phú quý
Lệ xuân hồng muôn vựng uy di
Vụ thu, thu thạch, thu quỳ
Hạ thì bán hạ, đông thì khoán đông
Tướng linh xa đã xung tứ tự
Vị tam tài đấu chữ thiên tương
Thứ hai địa cốt địa dương
Thứ ba nhân phát nhân hoàn nhân nha
Các thiên tinh trong tòa thập nhị
Thứ phụ là tướng trí phải chăng
Sửu thì ngựa tất, ngựa đăng
Dần là hổ lĩnh, mão bằng thổ ty
Tướng thìn kia du long kỳ dị
Xá sùng này tượng tỵ càng ghê
Ngọ thì mã liễu mã đề
Mùi linh dương giác, đầu kê, thần hầu
Đỗ cấu huân nào đâu chư đỗ
Tuất là triệt lộ tướng ta
Thần sa cùng với chu sa
Hùng hoàng giải độc, ấy ba vị thần
Xin xứ quân tinh hai mươi tám
Liễu tây hà, thanh lãm nỗ đâu
Nào là tất vát, quát lâu
Nào là phụ dực, khiên ngâu hiện hình
Nào nữ trinh, nam tinh kim đấu
Nào tinh hoa, quỷ cứu nhân dân
Lại sai lăng giác quế tâm
Hẹn trong tam thất, thiên châm bệnh phàm
Bà vân mẫu quyền tam bách bộ
Bất lưu hành tế độ biết bao
Vân đài là chốn thanh cao
Đồng nam đồng nữ ra vào thiên môn
Tài thao lược thiên tôn bá tử
Trận tung hoành lệ thủy lội hoàn
Thung dung bày thế thường sơn
Ra uy cứ thẳng, rửa oan phú bồn
Tội bất xã, cát căn tiên thảo
Quân vô danh tróc đảo xa tiền
Trị tà giơ phép mã chiên
Cứu người lấy nước bán thiên tưới vào.
Tay quyết cao xạ can mười vị
Cung sơn chi thập nhị thời thần
Lại nghề tay ấn ly lân
Bạch xà mười ngọn, tám chân bách kỳ
Phù mộc bút tức thì lại phục
Thuốc tô phương lập khác hoàn nguyên
Mối hay là phép cảnh thiên
Tự nhiên quan chúng bình yên trên đời
Khói trầm hương lòng người thành kính
Mùi kim ngân thanh tịnh khấn cầu
Giúp cho thương nhĩ bạch đâu
Thiền linh vạn tuế, sang giàu, trường sinh
(Trích trong Cát thiên tam thế lục)Cửa thiên tiên nhớ sức uy linh
Bách đàn tiên cáo huyền minh
Biết có lấy đức hoàng tinh kẻ mà
Lưới hố ma bức tường vây kể
Cờ Lan mao tùy địa len vào
Rõ ràng đã giáp áo bào
Giáo Ba kích, mũi vệ mâu ai bằng
Gậy Hổ trượng, quỷ tăng thanh giải
Gươm mã đào, mãi đại hoàng kinh
Cổ bí lẫn tiếng kinh linh
Mễ diêm ngũ đậu khao binh trích tà
Tướng ngũ hành hỏa ma, mộc miết
Thổ phục linh, kim tích, thủy ngân
Cùng là thù chí, thủy càn
Dự chi năm tướng, phục thần ai đang
Tướng ngũ linh tam hoàng trung đội
Xích thạch tri, thanh đại, thanh tương
Bạch vi hắc sừu, hắc khương
Phá tam ô tặc, mở được lục lâm
Tướng nũ vị khổ tâm can toại
Cùng mô hàm với lại tân di
Toan tương, toan táo lệ chi
Vân đăng giá vũ đông thì giáng chân
Đông phương thần chính đông bích thổ
Quân bách thiên toái bổ thiên ma
Tây phương hiện tượng tây qua
Nam sài, bắc đẳng ấy là tứ phương
Dương xuân tiết một trường phú quý
Lệ xuân hồng muôn vựng uy di
Vụ thu, thu thạch, thu quỳ
Hạ thì bán hạ, đông thì khoán đông
Tướng linh xa đã xung tứ tự
Vị tam tài đấu chữ thiên tương
Thứ hai địa cốt địa dương
Thứ ba nhân phát nhân hoàn nhân nha
Các thiên tinh trong tòa thập nhị
Thứ phụ là tướng trí phải chăng
Sửu thì ngựa tất, ngựa đăng
Dần là hổ lĩnh, mão bằng thổ ty
Tướng thìn kia du long kỳ dị
Xá sùng này tượng tỵ càng ghê
Ngọ thì mã liễu mã đề
Mùi linh dương giác, đầu kê, thần hầu
Đỗ cấu huân nào đâu chư đỗ
Tuất là triệt lộ tướng ta
Thần sa cùng với chu sa
Hùng hoàng giải độc, ấy ba vị thần
Xin xứ quân tinh hai mươi tám
Liễu tây hà, thanh lãm nỗ đâu
Nào là tất vát, quát lâu
Nào là phụ dực, khiên ngâu hiện hình
Nào nữ trinh, nam tinh kim đấu
Nào tinh hoa, quỷ cứu nhân dân
Lại sai lăng giác quế tâm
Hẹn trong tam thất, thiên châm bệnh phàm
Bà vân mẫu quyền tam bách bộ
Bất lưu hành tế độ biết bao
Vân đài là chốn thanh cao
Đồng nam đồng nữ ra vào thiên môn
Tài thao lược thiên tôn bá tử
Trận tung hoành lệ thủy lội hoàn
Thung dung bày thế thường sơn
Ra uy cứ thẳng, rửa oan phú bồn
Tội bất xã, cát căn tiên thảo
Quân vô danh tróc đảo xa tiền
Trị tà giơ phép mã chiên
Cứu người lấy nước bán thiên tưới vào.
Tay quyết cao xạ can mười vị
Cung sơn chi thập nhị thời thần
Lại nghề tay ấn ly lân
Bạch xà mười ngọn, tám chân bách kỳ
Phù mộc bút tức thì lại phục
Thuốc tô phương lập khác hoàn nguyên
Mối hay là phép cảnh thiên
Tự nhiên quan chúng bình yên trên đời
Khói trầm hương lòng người thành kính
Mùi kim ngân thanh tịnh khấn cầu
Giúp cho thương nhĩ bạch đâu
Thiền linh vạn tuế, sang giàu, trường sinh
Nguồn: Ngô Đức Thịnh - Đạo Mẫu Việt Nam - NXB Tôn giáo 2010.
Kết luận bài viết, tôi trích mấy câu trong sách “Võ Nguyên Giáp” của Georges Boudarel, NXB Thế giới - 2012 trang 660 nói về thần hiệu của Nam dược đã cứu sống Hồ Chủ tịch - Anh hùng dân tộc - Danh nhân văn hóa thế giới: “…Trong tháng 7/1945 Người đã phải nằm liệt giường nhiều ngày, chỉ uồng vài viên asperin… Ban đêm mỗi khi thức giấc, Người lại dặn dò hết việc này đến việc khác. Giáp có cảm tưởng đó là những lời trăng trối cuối cùng. Giáp vội vào làng tìm người giúp. Người ta chỉ cho một ông lang có tiếng trong vùng. Ngày hôm sau, thầy lang đến bắt mạch rồi đi vào rừng và trở lại với một củ rễ sao lên rồi tán nhỏ, đem hòa với cháo lỏng cho người bệnh uống. Uống được 2 bát thấy đỡ hẳn. Mấy hôm sau, Hồ Chủ tịch đã gượng dậy được”. Quả là thần hiệu quả Nam dược.
Hội thảo khoa học “Danh y Đào Công Chính và những cống hiến của ông cho nền y học cổ truyền dân tộc”