Hoàng đồ củng cố Đót Sơn tự Di Đà Phật bi
- Thứ sáu - 18/10/2024 11:31
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Đót Sơn tự Tân Minh chi danh tự dã. Sáng tự Lương gia chi Thuỷ tổ, lịch Lý Trần vi Quản lão tử Lãng, Nhàn, Dữ hậu tạo phù đồ quảng khai tự vũ, tôn Tán, Chính, Tín dữ trụ trì, trưởng lão Đót lý nhân Hợi, Tử, Mạch, Liễn đẳng tái hưng Phật sự



Đót Sơn tự Tân Minh chi danh tự dã. Sáng tự Lương gia chi Thuỷ tổ, lịch Lý Trần vi Quản lão tử Lãng, Nhàn, Dữ hậu tạo phù đồ quảng khai tự vũ, tôn Tán, Chính, Tín dữ trụ trì, trưởng lão Đót lý nhân Hợi, Tử, Mạch, Liễn đẳng tái hưng Phật sự. Cựu tích tăng huy nhiên, Di Đà tôn Phật diệc vị chi kiên. Huyền tôn Tiên vi Kiên Hưng phủ Đại An huyện thừa. Cư quan nhật hạ, đường cấu bất vong. Viên dữ Tư lễ Nguyễn Văn Tư, Hiệu uý Nguyễn Văn Là đồng hương nhân Lương văn Tuý, Nguyễn Văn Man đẳng suất chư đàn việt cập Trụ trì tăng Nguyễn Văn Lạc, liệu xuất gia tư, luân tài bị tượng khắc vi Phật tướng, kim thân trượng lục hồn nhiên. Nhi thành ư thị vạn ảnh trầm giang như như bất dị cô quang thấu, khích nhất nhất giai viên. Nhi tiền nhân chi nghiệp ích chương Phật sự chi truyền quang hiển, cố nghi kiên kỳ mân dĩ thị hậu giả kỳ từ vân:
Phật thị chi giáo,
Lưu ức tư miên.
Năng minh quyết nghĩa,
Tính tổ cập tôn.
Ký thành quyết tượng,
Nghi quảng kỳ truyền.
Lệnh danh thiên tải,
Dữ thạch câu tồn.
Đàn việt: Lương Liên, Nguyễn Văn Ban, Nguyễn Cận, Phạm Phẩm, Nguyễn Nhân Lực, Vũ Văn Đật, Nguyễn Liễn, Lương Văn Úc, Bùi Văn Tuyên, Nguyễn Đình Ngọ, Nguyễn Lễ, Vũ Đạp, Phạm Hiền, Nguyễn Duy Hiên, Nguyễn Hỗ, Nguyễn Văn Lai, Nguyễn Cán, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Văn Mãi, Nguyễn Cứ, Lương Văn Độ, Đào Xoang, Phạm Văn Lộc, Nguyễn Đông, Phạm Bá Loan, Lương Văn Tuấn, Nguyễn Văn Mặc, Cao Lâu thê Nguyễn Thị Xuân, Hoàng Thị Hạnh, Nguyễn Thị Thái, Nguyễn Thể Thản, Nguyễn Thị Đắn, Nguyễn Thị Cư, Nguyễn Thị Đỉnh, Vũ Thị Khối, Nguyễn Thị Bạc, Lương Thị Tín, Bùi Thị Lục, Lương Thị Sảng, Nguyễn Thị Oa, Bùi Thị Ni, Nguyễn Thị Chấp, Nguyễn Thị Quan, Vũ Thị Đắn, Lương Thị Ngọc, Lương Thị Công, Bùi Thị Ất, Nguyễn Thị Bàng, Phạm Thị Áp, Nguyễn Thị Vy, Lương Thị Dư, Nguyễn Thị Hoà, Nguyễn Thị Cô, Nguyễn Thị Mãn, Nguyễn Thị Doanh, Nguyễn Thị Lễ, Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Thị Dự, Nguyễn Thị Đỗ, Nguyễn Thị Mộng, Nguyễn Thị Qua, Đào Thị Lũng, Lương Thị Quỳnh.Lưu ức tư miên.
Năng minh quyết nghĩa,
Tính tổ cập tôn.
Ký thành quyết tượng,
Nghi quảng kỳ truyền.
Lệnh danh thiên tải,
Dữ thạch câu tồn.
Lão bà dĩ hạ: Lương Thị Thu, Đào Thị Ái, Nguyễn Thị Phi, Nguyễn Thị Đam, Nguyễn Thị Thuyên, Nguyễn Thị Kê, Nguyễn Nhân Anh, Trần Thị Tuy, Lê Thị Quân, Vũ Nhân Tha, Nguyễn Thị Nghiên.
Hồng Đức vạn vạn niên chi nhị thập nhị Tân Hợi trọng hạ.
Quốc tử giám quốc tử sinh ( …) soạn.
Trùng tu Phật bi
Nam Sách phủ, Tiên Minh huyện, Đăng Lai, Kinh Thanh, Phú Xuân, Lan Phố đẳng xã các sãi vãi trùng tu Đót Sơn tự, tố hội tam thập tướng Phật. Ký minh:
Đót Sơn tự danh,
Sãi vãi kinh doanh.
Phúc cơ bồi trưởng,
Tô hội viên thành.
Lưu truyền vĩnh thế,
Cộng hưởng khang vinh.
Dĩ tư công đức,
Bi thạch ký minh.
Nhất tín chủ các xã sãi vãi: Cao Văn Duệ ( Cai quản Hiền Lương Sứ, tự Huệ Ân); Cao Văn Lâm ( Nghĩa Xuyên bá, tự Huệ Diễn); Phạm Xuân Khoái ( tự Huệ Pháp); Phạm Đình Trường, Cao Khánh Diễn ( Tự Huyền Trân); Nguyễn Văn Hải ( Đại Lâm bá); Phẩm Cảnh ( Triều Dương bá, tự Huyền Tiên); Trần Hoàng Dương; Nguyễn Bá Han ( tự Huệ An tỳ khâu);Sãi vãi kinh doanh.
Phúc cơ bồi trưởng,
Tô hội viên thành.
Lưu truyền vĩnh thế,
Cộng hưởng khang vinh.
Dĩ tư công đức,
Bi thạch ký minh.
Cao Phú Lộc; Trịnh Văn Chỉnh; Nguyễn Phúc Đại ( Xuân Lai xã); Hoàng Tử Nghi ( Khai Khê bá); Nguyễn Hữu Đệ ( tự Huyền Văn); Nguyễn Hữu Tri ( tự Huyền Thông); Cao Đức Phú; Lương Công Phát, Phạm Thị Ngọc, Trần Nhân Nghĩa, Đào Ngộ Tiên, Nguyễn Gia Lộc, Phùng Dưỡng, Lương Văn Cảnh ( tự Phúc Quảng); Nguyễn Văn Đãi; Nguyễn Đắc Sự, Đào Thảo Lão; Cao Văn Điều; Cao Thành Trấn; Cao Thị Thanh, Nguyễn Thị Tự, Hà Văn Đàm; Nguyễn Công Đình; Cao Thế Hào; Ngô Văn Châu; Ngô Công Đoán; Lương Phúc Tráng, Bùi Khuyên; Phạm Thê Nghĩa; Ngô Văn Ca; Nguyễn Tất Quý, Phạm Phúc Lan, Nguyễn Vu Càn.
Nhất tín thí dĩ hạ: Phạm Ngọc Đối ( Lập Ngoại xã, Mỹ Hiền bá, tự Huyền Khánh). Lưu Thị Đồ, Nguyễn Huyền Đức; Nguyễn Hữu Tài; Phạm Viết Binh, Đặng Đạo Hoà; Nguyễn Văn Liêu; Phạm Thị Sỹ; Cao Thị Điểm; Trịnh Thị Tân; Nguyễn Thị Tuyển, Xương Thị Ngọc Chi; Nguyễn Thị Củng; Nguyễn Thị Dính; Cao Vương Phi; Phạm Thị Sử, Phạm Văn Đạt, Lương Thư, Trần Cầu; Lương Thị Đa; Nguyễn Thị Hành; Nguyễn Triệt, Nguyễn Đức Nho; Nguyễn bạo, Phạm Đình Quân; Nguyễn Phúc Nghiêm.
Nguyễn Thị Tiên; Ngô Văn Tá; Nguyễn Thị Khâu; Cao Văn Đương; Trần Thị Biếm; Cao Văn Thường; Nguyễn Trí Mưu; Cao Thị Thể, Nguyễn Văn Đáng; Lương Khắc Thành; Hoàng Khắc Kính; Nguyễn Phúc Mạnh; Trần Tắc Kính; Nguyễn Phúc Lãnh; Đặng Thị Hoa; Nguyễn Kim Bi; Trịnh Thị Tự, Cao Văn Điển, Cao Văn Đôn; Nguyễn Phú Sơn, Đào Đa Phúc; Phạm Nhân Bồi; Nguyễn Văn Đức; Phạm Thế Hùng; Vũ Văn Viên; Nguyễn Phúc Ninh; Nguyễn Đạo Liêm; Nguyễn Lương Tâm; Nguyễn Chân Lương;
Nguyễn Đạo Diễm; Nguyễn Đạo Thôn; Phan Thuần Nghĩa; Nguyễn Đạo Hưng; Lê Văn Biện; Bùi Ngao Du; Phạm Huệ Tính; Nguyễn Bồng; Thuần Trạch, Nguyễn Gia Phú; Vũ Phúc Nguyên; Đỗ Phúc Tiến; Đỗ Phúc Gia; Vũ Đạo Chính; Nguyễn Đức Nghĩa; Nguyễn Cần Phúc; Phạm Văn Chiêu; Nguyễn Huyền Sử, Lương Văn Thanh; Nguyễn Thị Ngộ, Nguyễn Thị Định; Vũ Thị Bằng, Cao Thế Chung; Trần Thị Điều; Nguyễn Thị Điển; Nguyễn Thể Diễn; Trần Văn Vy; Nguyễn Thị Dương; Nguyễn Thị Biện; Nguyễn Văn Thông; Trịnh Nghĩa Công, Trần Thị Đang; Trịnh Kính Thành; Nguyễn Văn Tá; Lương Sỹ Phong; Cao Diễn Thọ.
Tuế thứ Nhâm Dần niên lục nguyệt thập ngũ nhật trùng tu.
Nghĩa xuyên bá Cao văn Lâm soạn ký.
DỊCH NGHĨA
NGHIỆP NHÀ BỀN VỮNG,
BIA PHẬT DI ĐÀ CHÙA ĐÓT SƠN
Chùa Đót Sơn là ngôi chùa nổi tiếng ở xứ Tân Minh. Chùa bắt đầu xây dựng từ cụ Thuỷ Tổ đời nhà Lương, trải qua đời Lý, đời Trần đến đời con ông Quản lão là các ông Lãng, Nhàn, Du lại dựng tháp mở chùa, đến đời cháu các ông Tán, Chính, Tín cùng vị thượng lão trụ trì người làng Đót, các ông Hợi, Tử, Mạch, Liễn lại dấy việc thờ Phật. Chùa cũ càng thêm huy hoàng, nhưng tượng Đức Di Đà lại chưa có. Đến đời người cháu huyền tôn(1) là ông Tiên, làm quan huyện thừa ở huyện Đại An, phủ Kiến Hưng. Khi việc quan nhàn tản, cũng không quên tục sự nghiệp ông cha, ông bèn cùng quan Tư lễ Nguyễn Văn Tư, quan Hiệu uý Nguyễn Văn Là cùng với người làng là Lương Văn Tuý, Nguyễn Văn Man xướng suất về những người mộ đạo và sự trụ trì Nguyễn Văn Lạc đem cúng của nhà, mua gỗ thuê thợ, khắc tô tượng Phật mình vàng sáu thước, công việc hoàn thành. Trong vào đó đúng là hình ảnh in xuống đáy sông, không sai nửa nốt. Tia sáng xuyên qua khe hở, tròn trĩnh như nhau. Công đức ông cha và người làng được rõ ràng, đạo Phật truyền bá ngày càng sáng tỏ. Cho nên khắc vào bia đá, để chỉ bảo cho thế hệ mai sau. Lời minh rằng:
Giáo lý Đức Phật,
Lưu truyền ngàn năm.
Hiểu rõ ý nghĩa,
Từ ông đến cháu.
Tượng đã tạc xong,
Lưu truyền rộng khắp.
Tiếng lành còn mãi,
Bia đá ngàn năm.
Những bậc đàn việt công đức như sau: Lương Liên, Nguyễn Văn Ban, Nguyễn Cận, Phạm Phẩm, Nguyễn Nhân Lực, Vũ Văn Đật, Nguyễn Liễn, Lương Văn Úc, Bùi Văn Tuyên, Nguyễn Đình Ngọ, Nguyễn Lễ, Vũ Đạp, Phạm Hiền, Nguyễn Duy Hiên, Nguyễn Hỗ, Nguyễn Văn Lai, Nguyễn Cán, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Văn Mãi, Nguyễn Cứ, Lương Văn Độ, Đào Xoang, Phạm Văn Lộc, Nguyễn Đông, Phạm Bá Loan, Lương Văn Tuấn, Nguyễn Văn Mặc, Cao Lâu thê Nguyễn Thị Xuân, Hoàng Thị Hạnh, Nguyễn Thị Thái, Nguyễn Thể Thản, Nguyễn Thị Đắn, Nguyễn Thị Cư, Nguyễn Thị Đỉnh, Vũ Thị Khối, Nguyễn Thị Bạc, Lương Thị Tín, Bùi Thị Lục, Lương Thị Sảng, Nguyễn Thị Oa, Bùi Thị Ni, Nguyễn Thị Chấp, Nguyễn Thị Quan, Vũ Thị Đắn, Lương Thị Ngọc, Lương Thị Công, Bùi Thị Ất, Nguyễn Thị Bàng, Phạm Thị Áp, Nguyễn Thị Vy, Lương Thị Dư, Nguyễn Thị Hoà, Nguyễn Thị Cô, Nguyễn Thị Mãn, Nguyễn Thị Doanh, Nguyễn Thị Lễ, Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Thị Dự, Nguyễn Thị Đỗ, Nguyễn Thị Mộng, Nguyễn Thị Qua, Đào Thị Lũng, Lương Thị Quỳnh.
Các lão bà công đức như sau: Lương Thị Thu, Đào Thị Ái, Nguyễn Thị Phi, Nguyễn Thị Đam, Nguyễn Thị Thuyên, Nguyễn Thị Kê, Nguyễn Nhân Anh, Trần Thị Tuy, Lê Thị Quân, Vũ Nhân Tha, Nguyễn Thị Nghiên.
Năm Tân Hợi niên hiệu Hồng Đức thứ 22 ( 1491).
Giám sinh Quốc Tử Giám là (…) soạn.
Bia trùng tu chùa Phật
Các sãi vãi của các xã Đăng Lai, Kinh Thanh, Phú Xuân, Lan Phố thuộc huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách cùng nhau sửa lại chùa Đót Sơn, tô vẽ tượng Phật gồm 30 pho, và làm bài minh như sau:
Đót Sơn tên gọi,
Sãi vãi dựng xây.
Vẹn tròn tượng Phật,
Nền phúc căng đầy.
Lưu truyền mãi mãi,
Cùng hưởng sum vầy.
Góp phần công đức,
Khắc đá minh này
Tín chủ sãi vãi các xã: Cao Văn Duệ ( Cai quán tước Hiền Lương Sứ, tự Huệ Ân); Cao Văn Lâm ( tước Nghĩa Xuyên bá, tự Huệ Diễn); Phạm Xuân Thoái ( tự Huệ Pháp); Phạm Đình Trường, Cao Khánh Diễn ( Tự Huyền Trân); Nguyễn Văn Hải ( tước Đại Lâm bá); Phạm Cảnh ( tước Triều Dương bá, tự Huyền Tiến); Trần Hoàng Dương; Nguyễn Bá Han ( tự Huệ An tỳ khâu); Cao Phú Lộc; Trịnh Văn Chỉnh; Nguyễn Phúc Đại ( người xã Xuân Lai); Hoàng Tử Nghi ( tước Khai Khê bá); Nguyễn Hữu Đệ ( tự Huyền Văn).Sãi vãi dựng xây.
Vẹn tròn tượng Phật,
Nền phúc căng đầy.
Lưu truyền mãi mãi,
Cùng hưởng sum vầy.
Góp phần công đức,
Khắc đá minh này
Nguyễn Hữu Tri ( tự Huyền Thông); Cao Đức Phú; Lương Công Phát, Phạm Thị Ngọc, Trần Nhân Nghĩa, Đào Ngộ Tiên, Nguyễn Gia Lộc, Phùng Dưỡng, Lương Văn Cảnh ( tự Phúc Quảng); Nguyễn Văn Đãi; Nguyễn Đắc Sự, Đào Thảo Lão; Cao Văn Điều; Cao Thành Trấn; Cao Thị Thanh, Nguyễn Thị Tự, Hà Văn Đàm; Nguyễn Công Đình; Cao Thế Hào; Ngô Văn Châu; Ngô Công Đoán; Lương Phúc Tráng, Bùi Khuyên; Phạm Thê Nghĩa; Ngô Văn Ca; Nguyễn Tất Quý, Phạm Phúc Lai, Nguyễn Vu Càn.
Những người tiến cúng như sau: Phạm Ngọc Đời ( người xã Lập Ngoại, tước Mỹ Hiền bá, tự Huyền Khánh). Lưu Thị Đồ, Nguyễn Huyền Đức; Nguyễn Hữu Tài; Phạm Viết Binh, Đặng Đạo Hoà; Nguyễn Văn Liêu; Phạm Thị Sỹ; Cao Thị Điểm; Trịnh Thị Tân; Nguyễn Thị Tuyển, Lương Thị Ngọc Chi; Nguyễn Thị Củng; Nguyễn Thị Dính; Cao Vương Phi; Phạm Thị Sử, Phạm Văn Đạt, Lương Thư, Trần Cầu; Lương Thị Đa; Nguyễn Thị Hành; Nguyễn Triệt, Nguyễn Đức Nho; Nguyễn Bạo, Phạm Đình Quân; Nguyễn Phúc Nghiêm. Nguyễn Thị Tiên; Ngô Văn Tá; Nguyễn Thị Khâu; Cao Văn Đương; Trần Thị Biếm; Cao Văn Thường; Nguyễn Trí Mưu; Cao Thị Thể, Nguyễn Văn Đáng; Lương Khắc Thành; Hoàng Khắc Kính; Nguyễn Phúc Mạnh; Trần Tắc Kính; Nguyễn Phúc Lãnh; Đặng Thị Hoa; Nguyễn Kim Bi; Trịnh Thị Tự, Cao Văn Điển, Cao Văn Đôn; Nguyễn Phú Sơn, Đào Đa Phúc; Phạm Nhân Bồi; Nguyễn Văn Đức; Phạm Thế Hùng; Vũ Văn Viên; Nguyễn Phúc Ninh; Nguyễn Đạo Liêm; Nguyễn Lương Tâm; Nguyễn Chân Lương; Nguyễn Đạo Diễn; Nguyễn Đạo Thôn; Phan Thuần Nghĩa; Nguyễn Đạo Hưng; Lê Văn Biếm; Bùi Ngao Du; Phạm Huệ Tính; Nguyễn Bồng; Thuần Trạch, Nguyễn Gia Phú; Vũ Phúc Nguyên; Đỗ Phúc Tiến; Đỗ Phúc Gia; Vũ Đạo Chính; Nguyễn Đức Nghĩa; Nguyễn Cần Phúc; Phạm Văn Chiêu; Nguyễn Huyền Sử, Lương Văn Thanh; Nguyễn Thị Ngộ, Nguyễn Thị Đinh; Vũ Thị Bằng, Cao Thế Chung; Trần Thị Điều; Nguyễn Thị Điển; Nguyễn Thể Diễn; Trần Văn Vy; Nguyễn Thị Dương; Nguyễn Thị Biện; Nguyễn Văn Thông; Trịnh Nghĩa Công, Trần Thị Đang; Trịnh Kính Thành; Nguyễn Văn Tá; Lương Sỹ Phong; Cao Diễn Thọ.
Tu sửa xong vào ngày 15 tháng 6 năm Nhâm Dần.
Nghĩa xuyên bá Cao văn Lâm soạn ký.
Ths Vũ Minh Đức