Hải Phòng học

http://haiphonghoc.vn


Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo xứ Đông

Trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, nền văn hóa Việt cổ là sự hội tụ của các vùng văn hóa gồm Thăng Long - Hà Nội và xung quanh là 4 xứ: Đông, Đoài, Bắc, Nam đã làm lên vùng văn hóa Việt Nam ngàn năm văn hiến.

Nguyễn Văn Phương

Hội Sử học Hải Phòng

Trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, nền văn hóa Việt cổ là sự hội tụ của các vùng văn hóa gồm Thăng Long - Hà Nội và xung quanh là 4 xứ: Đông, Đoài, Bắc, Nam đã làm lên vùng văn hóa Việt Nam ngàn năm văn hiến.

Xứ Đông xưa được duy danh là nằm ở phía Đông thành Thăng Long bao gồm Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Bình. Trong đó Hải Dương được coi là trung tâm. Đây thực sự là một vùng văn hóa rộng lớn hiện còn bảo tồn lưu giữ một kho tàng di sản văn hóa dân tộc hết sức phong phú và đa dạng. Trong đó có kho tàng di sản về kiến trúc Phật giáo. Bằng chứng là hầu như các làng xã đều có sự hiện diện của mái chùa thờ Phật và các mái chùa đó luôn gắn liền với quá trình du nhập vào Việt Nam của đạo Phật, đồng hành cùng dân tộc theo dòng chảy của lịch sử qua các thời kỳ.

Ở thời kỳ đầu mới du nhập vào Việt Nam, các nhà nghiên cứu về kiến trúc Phật giáo ở thời kỳ này đều cho rằng, do không thể còn nguyên vẹn nên chùa chiền ở thời kỳ này chỉ còn trên sử sách nên để khung niên đại khá dài, từ thế kỷ I cho đến thế kỷ VI do không phát hiện thấy dấu vết kiến trúc mà phải căn cứ vào các bài tựa kinh như Pháp cảnh hay trong Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội khi nhà sư này gọi kiến trúc Phật giáo ở thời kỳ này là Miếu đường hay Tông Miếu. Còn tên gọi là chùa (hay tự) thì chưa thấy nhắc đến. Các kiến trúc mà thiền sư Khương Tăng Hội nhắc đến chỉ cho phép ước đoán đó có thể là một mái lá đơn sơ gồm 1 gian. hai chái, chính giữa có ban thờ, tường treo tranh vẽ hình hoặc chữ phật mà thôi. Đôi khi chùa ở thời kỳ này thường đặt trong một mái đá tự nhiên của một ngọn núi, đồi (chẳng hạn như chùa trong đá Hang ở Đồ Sơn).

Vào thế kỷ V, VI, phật giáo ở nước ta đã phát triển khá mạnh (trung tâm lớn thời bấy giờ là vùng Luy Lâu, chùa Dâu) nên các tư liệu cho rằng đã có nhiều kiến trúc nổi tiếng khi thấy có ghi chép nói về việc việc Pháp Sư Đàm Thiên tâu với vua Văn Đế (vua của nước Tùy) là: “ở Giao Châu có tới 20 ngôi bảo sát”. Theo giải thích thì Bảo sát là cõi đất thanh tịnh, thuộc thất bảo của Phật, cũng có nghĩa là chùa Phật, tháp Phật. Chùa chủ yếu làm theo kiểu dạng tháp nhiều hơn. Đến thế kỷ, VII, VIII, với sự xuất hiện của Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, nhiều nghiên cứu đã khẳng định, chùa chiền ở thời kỳ này bắt đầu xuất hiện nhiều ở các làng xã vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ nhưng dấu tích thì mãi cho đến thời vua Đinh, vua Lê cũng chỉ phát hiện được di vật là các cột kinh Phật. Có thể các chùa được dựng lên ở thời kỳ này còn chưa có sự bảo hộ của nhà nước do các triều đại còn ở thời kỳ chưa vững mạnh, chưa sử dụng được triệt để mặt tích cực của Phật giáo nên các chùa xây dựng lên theo hình thức tự phát.

Từ thời Lý, Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ hơn, nhà nước quân chủ chuyên chế ra đời và được củng cố với sự đóng góp tích cực của trí thức Phật giáo, đồng thời phần nào dựa vào Phật giáo mà chính quyền tập hợp được lực lượng quần chúng. Sử sách cho biết ở thời kỳ này, kiến trúc Phật giáo đã phân chùa ra làm 3 loại: Đại danh lam kiêm hành cung; Trung danh lam và Tiểu danh lam.

Địa danh lam kiêm hành cung được biết đến là những ngôi chùa, tháp liên quan trực tiếp đến tầng lớp trên trong xã hội như là vua, triều đình và các hoàng hậu. Những ngôi chùa, tháp kiêm hành cung thời đó ở Xứ Đông tiêu biểu nhất là Tháp Tường Long, Đồ Sơn, Hải Phòng. Các xứ khác có thể kể tên như Thăng Long có tháp Đại Thắng Tư Thiên (tức tháp Báo Thiên): chùa Phật Tích, chùa Long Hạm/ Dạm (Xứ Bắc); chùa tháp Long Đọi (Hà Nam); Tháp Chương Sơn (Nam Định) thuộc xứ Sơn Nam. Chùa, tháp thời kỳ thường được xây dựng ở thế đất cao lưng chừng núi hoặc trên đỉnh đồi, do vậy phải bạt thành các cấp nền lớn và gần sông, ngòi để thuyền vua có thể lui tới một cách thuận lợi. Tháp thời Lý mang tính chất như một đài chiến thắng, nói lên ý chí tự lực tự cường của dân tộc trước khi được sử dụng làm kiến trúc trong cảnh chùa và chưa thấy nói tới tháp là nội mộ. Về Phật điện thời Lý có thể được diễn ra dưới 2 dạng là tháp hoặc nhà. Căn cứ vào khảo sát điền dã và khảo cổ học, có thể thất có tháp thì không có Phật điện kiểu nhà và ngược lại. Bởi có thể thấy, dù ở dạng nào thì kiến trúc Phật điện cũng không chiếm diện tích lớn, Trong thời Lý, Phật điện chưa nhiều tượng. Thông thường, tùy theo chùa, người ta đặt một pho tượng tương đối lớn của Phật hay 1 vị Bồ tát nào đó ngồi trên một đài sen tương ứng. Còn chùa trong kiến trúc dạng nhà vẫn được phỏng đoán có dạng gần như vuông.

Trung danh lam, hay còn gọi là Đại danh lam không kiêm hành cung. Dấu tích còn lại đến nay không nhiều. Xứ Đông thấy có chùa Hương Lâm ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Kiến trúc chùa dạng này tương tự như chùa kiêm hành cung (đại danh lam). Phật điện cũng chỉ có một bệ đá lớn nơi Phật tọa. Khác nhau chủ yếu ở địa thế mặt bằng, điêu khắc trang trí không có hình rồng.

Tiểu danh lam hay còn là chùa của Đại sư và dân làng. Đương thời, chắc chắn loại hình chùa này được xây dựng nhiều nhưng do chất liệu không bền vững nên đến nay ở Xứ Đông không còn thấy nữa mà chỉ còn các chùa gắn với tên tuổi của các đại sư ở xứ Bắc, xứ Đoài và Thăng Long như chùa Thầy, chùa Hoàng Kim v.v…

Thời Trần thế kỷ 13, 14, Phật giáo nước ta đã phát triển sang chiều hướng mới khi các Phật phái thời Lý đã mờ dần đi để cho một thiền phái mới nổi lên. Thiền phái Trúc Lâm. Mở đầu là ông vua đầu triều, Trần Thái Tông, khi ông bỏ cung vua trốn lên Yên Tử để tìm Phật, được Phù Vân Quốc Sư chỉ rõ “Phật ở nơi tâm”. Tiếp theo ở triều đại nhà Trần có Tuệ Trung Thượng Sĩ và vua Trần Nhân Tông đã kế tục Tuệ Trung để trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm. Vì thế ở Xứ Đông ta, Yên Tử Quảng Ninh đã trở thành trung tâm phật giáo lớn nhất ở thời kỳ này. Với tình hình trên cho thấy, ở giai đoạn đầu, các chùa lớn, chùa chính thường được nhà nước, chính quyền địa phương bảo hộ (chùa Phổ Minh). Các chùa làng ở thời Trần cũng có thể được xây dựng nhiều nhưng qui mô nhỏ do kế thừa từ chùa làng thời Lý nên dấu tích để lại đến nay còn rất ít. Ngay như tượng Phật, các nghiên cứu đều cho thấy chưa phát hiện được pho tượng thời Trần nào ở các chùa mà chỉ thấy một vài nhang án, bệ thờ bằng đá có điêu khắc hoa văn phong cách Trần ở khu vực Thăng Long nên mới còn đến nay.

Thời Lê Sơ, (thế kỷ XV), Phật giáo bị chính quyền hạn chế, ngôi chùa không có điều kiện phát triển mạnh nữa. Trước đó, trong cuộc chiến tranh xâm lược, giặc Minh đã tàn phá khá nhiều chùa ở nước ta. Sau chiến thắng, triều Lê Sơ đã lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống. Do vậy, Phật giáo đã gần như bị đẩy lùi về nơi thôn dã. Các nghiên cứu kiến trúc Phật giáo thời kỳ này cũng phàn nàn khi tìm thấy rất ít các ngôi chùa xây dựng ở thời kỳ này. Họ chỉ thấy một vài tấm bia tại các chùa lớn ở Thăng Long và xứ Đoài mà thôi. Và như thế chúng ta có thể hiểu chùa thời Lê Sơ, nhất là chùa làng chắc sẽ nhỏ bé thôi và cơ bản vẫn là sự kế thừa các chùa thời Trần, dựng trên thế cao với nền gần vuông, kết cấu một gian hai chái theo phong cách của thời các thời kỳ trước. Ngay như tượng Phật tạo tác ở các thời kỳ cũng rất hiếm gặp ở trong chùa.

Đến thời Mạc, Phật giáo và các tín ngưỡng dân gian phục hồi mạnh mẽ. Về kiến trúc thời này được coi như một giai đoạn gắn với sự bùng nổ của văn hóa dân gian. Đây là mốc quan trọng làm bệ đỡ cho sự phát triển của kiến trúc, nghệ thuật ở thế kỷ XVII. Thông qua kiến trúc Phật giáo, cũng có thể nhận thấy sự phân tầng khi đều có sự tham gia của tầng lớp thống trị và chùa của dân ở các làng xã.

Với sự tham gia tầng lớp thống trị, quí tộc, chùa có mặt bằng khá rộng như chùa Nhân Trai (Kiến Thụy, Hải Phòng). Mở đầu cho kiến trúc chùa là một tam quan, sau là hai cây tháp nằm đối xứng hai bên của nhất chính đạo dẫn đến một tòa thượng điện với 3 lối lên. Chùa Nhân Trai (tên chữ Phúc Linh tự, tên cũ Nhân Thọ cung) ít nhiều có gắn với nhà vua hay triều đình nên phần cửa giữa được làm thành bậc bằng rồng nguyên con, hai cửa bên là rồng vân hóa. Cũng ở Hải Phòng, chùa Trà Phương (Thiên Phúc tự) cũng có sự tham gia của tầng lớp thống trị (trong chùa có tượng Mạc Đăng Dung, Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn và bia ký nửa đầu thế kỷ XVI) song rất tiếc thời gian đã xóa bằng kiến trúc đương thời.

Còn chùa của làng xã. Qua khảo sát điền dã, các nhà nghiên cứu cho rằng kết cấu gỗ liên quan đến chùa thời Mạc trở về trước thường được làm bằng gỗ mít, có trang trí hoa văn rồng, phượng, lân, hoa sen, hoa cúc, chim cách điệu… Nền nhà bằng đất nện để thông tam giới.

Đặc trưng kiến trúc Phật giáo thời này thường được chạm khắc nhiều đề tài khác nhau trên các bộ phận kết cấu trong lòng nhà. So sánh với kiến trúc giai đoạn sau đó thấy rằng hầu như kiến trúc của thời Mạc chưa có tường bao kín xung quanh.

Nhìn chung kiến trúc chùa thời Mạc chưa vươn theo chiều cao, đầu bảy rất thấp so với nền và sàn nhà, bộ mái lớn có góc giữa hai mái xấp xỉ 600 , tam giác đỉnh chùa hai đầu hồi được để hở nhằm tạo sự thông thoáng và lấy ánh sáng vào bên trong công trình.

Thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17, sự sùng bái phật giáo không bị cấm đoán. Đó là điều kiện để cửa chùa được mở rộng trở lại. Phật giáo đương thời đã như một cứu cánh cho hệ tư tưởng chung. Nhiều tầng lớp trên như các bà hoàng, công chúa, quận công cũng nương cửa phật đài đã tạo cho nhiều ngôi chùa có qui mới, khang trang, rộng rãi với nhiều tòa ngang dãy dọc. Kiến trúc từ nếp nhà chữ Nhất chuyển sang chữ Công, có thêm nhà Tổ (một số chùa có điện Thánh), hai dãy hành lang để rồi hình thành lối mặt bằng kiểu “nội công ngoại quốc”. Như vậy, kiến trúc Phật giáo đương thời đã mở rộng được cả chiều ngang lẫn chiều dọc, có hệ thống tường bao quanh; khuôn viên chùa có các tháp mộ của các thế hệ sư trụ trì, Phật điện đông đúc hơn trước, nhu cầu hành lễ cao đã đòi hỏi sự thay đổi.. Đây cũng là thời kỳ các tông phái như Lâm Tế, Tào Động có điều kiện du nhập và phát triển ở khu vực phía bắc.

Sang thế kỷ XVIII, duy trì kiểu chùa thế kỷ trước nhưng với số lượng tượng Phật thờ được tăng thêm đã buộc kiến trúc Phật giáo hình thành 3 lớp nhà kiểu chữ Tam. Giữa các tòa nhà thường để lại một khoảng trống để lấy ánh sáng, từng nếp nhà hình thành kiểu mái chồng diêm nốc các hai tầng tám mái. Kết cấu vì nóc mái thường có hai dạng thức cơ bản, “chồng rường giá chiêng” và vì “chồng rường”.

Thời Nguyễn, đời vua Gia Long Phật giáo không còn được quan tâm như trước. Nhưng từ vua Minh Mạng trở về sau triều đình đã quan tâm chăm lo chùa Phật, xây mới nhiều chùa chiền (nhất là khu vực Huế). Còn ngoài Bắc, chùa làng vẫn được người dân đóng góp sửa sang, tân tạo.

Đặc trưng kiến trúc cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX thường làm đơn giản với thức vì kèo và cốn mê và vì mái kiểu vỏ cua. Tồn tại trong nhiều kiến trúc chùa thời kỳ này là việc đẩy hệ thống cửa cà hàng cột cái tiền để tạo nên một hiên rộng và phần nào đã phơi bày được bộ cốn mê được trang trí nhiều đề tài, tích truyện cổ. Ý thức đưa bộ mái lên cao đã tạo ra những chân tảng dật cấp nhiều tầng hay hình quả giành. Đồng thời làm hệ thống ngưỡng bằng đá chạm chắc chắn (chùa Bối Khê), cột đá mang tư cách cột hiên đỡ đầu bẩy được hình thành và phát triển mạnh ở thời Khải Định, Bảo Đại. Vật liệu vôi, vữa hiện đại đã được sử dụng rộng trong việc xây dựng các công trình tôn giáo thời Nguyễn đã tạo nên những đặc trung kiến trúc dễ nhận biết với kiến trúc các thời kỳ trước.

Nghệ thuật kiến trúc chùa Việt Nam nói chung, ở Xứ Đông nói riêng đã có những bước đi dọc theo lịch sử đất nước. Với ngôi chùa, ít nhiều chúng ta có thể thấy được sự thăng trầm của mỗi một thời kỳ lịch sử cũng như những vấn đề về nét bản sắc văn hóa dân tộc.

Ngày nay, nghệ thuật kiến trúc chùa Việt Nam truyền thống đã trở thành một bộ phận quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị của tinh hoa văn hóa Phật giáo Việt Nam hội tụ trong kiến trúc cổ của các ngôi chùa đã trở thành một nhiệm vụ cần được quan tâm thỏa đáng không chỉ hôm nay mà còn cho mai sau.

Nguồn bài viết in trong: “Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo xứ Đông

trong dòng chảy văn hóa dân tộc” Tr271 - Tr274

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO HẢI PHÒNG

Ths, KTS Nguyễn Minh Trí

Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Hải Phòng

Thành phố Hải Phòng là địa phương được tiếp cận và truyền bá Phật giáo ngay từ những ngày đầu sơ khai, qua con đường truyền đạo chính từ biển Đông như các địa danh Nê Lê - Đồ Sơn, hay những di tích khảo cổ được tìm thấy trên đảo Cát Bà và một phần từ đường bộ. Trong quá trình hình thành và phát triển, Phật giáo Hải Phòng đã để lại một kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú. Trong đó nghệ thuật kiến trúc Phật giáo của Hải Phòng có những nét đặc trưng của văn hóa xứ Đông và văn hóa Hải Phòng. Kiến trúc những ngôi nhà ở Hải Phòng được hình thành theo khu vực dân cư sinh sống, Trên núi cao, vùng đồng bằng và ngoài hải đảo.

Hiện nay ở Hải Phòng có hơn 60 ngôi chùa, trong đó 33 ngôi là di tích Quốc gia đặc biệt, 127 chùa là di tích cấp tỉnh thành phố. Mỗi ngôi tự viện là một công trình nghệ thuật kiến trú mang trên mình một sứ mệnh lịch sử, một sắc màu tâm linh, lưu giữ nét văn hóa dân tộc và còn là những chứng tích lịch sử của công cuộc dựng nước và giữ nước. Hải Phòng có nhiều ngôi cổ tự với kiến trúc còn hầu như nguyên vẹn những nét rêu phong cổ kính. Hệ thống tượng Phật, chuông đồng, khánh đá, hoành phi câu đối vô cùng phong phú, bên cạnh đó là các lễ hội Chùa truyền thống được lưu giữ trong nhân gian. Đạo Phật từng bước dung hợp với tín ngưỡng bản địa như tục thờ tổ tiên, hay thờ cúng các vị thần, đã tạo nên không gian thờ tự Phật, Thánh, Mẫu, hay tiền Phật hậu 7 Thánh, mang một sắc thái riêng về nghệ thuật kiến trúc Phật giáo tại thành phố Hải Phòng.

Hệ thống chùa cổ ở Hải Phòng là những báu vật kiến trúc vô giá của ông cha để lại. Những ngôi chùa cổ tại Hải Phòng mang kiến trúc Từ thời Đinh - Lý -Trần và thời Nguyễn. Kiến trúc thời Lý - Trần tiêu biểu với mô tuýp hoa văn điêu khắc trên các bức phù điêu, hoành phi, câu đối, tháp cổ, là lịch sử văn hóa, thông tin về các nhân vật lịch sử có những thông điệp, nhằm gửi tới thế hệ kế tiếp những giá trị đạo đức kiến thức xã hội. Các ngôi chùa cổ đã và đang được bảo vệ nghiêm, một số công trình xuống cấp được trùng tu một cách khoa học, có nghiên cứu, đảm bảo giá trị về lịch sử và nghệ thuật kiến trúc.

Hải Phòng là địa phương hội tụ đầy đủ các yêu tố địa lý có đồi núi, đồng bằng, đô thị, thôn quê, hải đảo và biển. Tại các đảo xa xôi nhất Phật giáo cũng đã có những ngôi chùa được xây dựng mới, đây là những công trình kiến trúc mang nhiều ý nghĩa không những đối với đồng bào Phật tử là những ngư dân, mà còn là ý nghĩa to lớn như cột mốc gìn giữ biên cương lãnh thổ. Kiến trúc ngôi chùa trên đảo Bạch Long Vỹ chính là mang ý nghĩa sâu xa đó ở vùng biên hải, khẳng định quyền của người dân Hải Phòng nói riêng và người nước Việt nói chung.

Kiến trúc chùa, đình, tháp cổ ở Hải Phòng có những di tích đã hơn 300 năm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo riêng có ở Hải Phòng. Có thể kể ra như đình Hàng Kênh, chùa Hang, tháp Tường Long… nằm ở trong hệ thống di tích lịch sử nổi bật của thành phố Hải Phòng. Nói về đình Hàng Kênh đã lưu giữ được những nét kiến trúc, văn hóa độc đáo và giá trị. Đình Hàng Kênh nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Đình được khởi dựng vào cuối thế kỷ XVII. Đình Hàng Kênh được xây dựng theo bố cục kiến trúc truyền thống: đại đình, tọa ống muống và hậu cung. Ngoài kiến trúc chính còn có hai tòa giải vũ, văn miếu, hồ bán nguyệt. Đình Hàng Kênh được xây dựng để thờ thành hoàng làng, sau này được vua Tự Đức cho tu bổ, tôn tạo và được dành làm nơi thờ “Quốc tổ trung hưng” Ngô Quyền - người có công đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, mở ra một kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc Việt Nam. Tòa đại đỉnh là phần kiến trúc trọng yếu nhất của ngôi đình, có quy mô bề thế gồm 7 gian, mái lợp ngói mũi hài, đầu đạo cong vút. Nét đặc sắc, độc đáo của tòa đại đình là các mảng trang trí chạm khắc cầu kỳ, tinh xảo như chạm bong hình, chạm nổi, chạm thủng trên các xà, cột, câu đầu, bảy hiên, cốn… tạo nên không gian nhiều tầng, nhiều lớp, một thế giới điêu khắc sống động với nhiều đề tài phong phú, đa dạng như rồng, mây, hoa lá, kỳ lân, phượng. Ngoài hiên, trên các tấm ván, dưới các chấn song có tới hơn 100 mảng chạm hình rồng, mây, hoa, lá cách điệu. Cả trong và ngoài đình Hàng Kênh có tới 268 mạng chạm tinh xảo. Đình Hàng Kênh không chỉ có giá trị lớn về nghệ thuật kiến trúc điêu khắc mà còn bảo lưu được kiểu thức ván sàn lòng thuyền hiếm có, đưa đình Hàng Kênh trở thành một di sản văn hóa đặc sắc trong ngôi đình Việt Nam. Đình Hàng Kênh là di tích đặc biệt, tiêu biểu của thành phố Hải Phòng, được Nhà nước xếp hạng di tích quốc gia từ năm 1962.

Chùa Hang hay còn gọi là Cốc Tự tọa lạc tại khu 1, phường Vạn Sơn, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng được xem là ngôi chùa thiên tạo lớn nhất trong khu di tích lịch sử Đồ Sơn. Đây được coi là nơi đầu tiên đạo Phật du nhập vào Việt Nam. Đúng như tên gọi của chùa, các bậc tiền nhân đã lấy một hang đá trên núi Vạn Tác để lập chỗ tu hành. Đây là ngôi chùa có kiến trúc hết sức đặc biệt, chùa được đặt trong lòng hang đá ven sườn núi cao 35m, rộng 7m và được chia thành hai bậc thềm trong - ngoài. Về tổng quan, chùa có cấu trúc hình thang, xuyên thẳng vào trong núi với độ dài khoảng 25m. Theo truyền ngôn, một nhà sư tên Bần, người xứ Thiên Trúc theo thuyền đi truyền bá đạo Phật đã đến cư trú tại hang và mở chùa này. Nhiều nhà nghiên cứu trong nước cho rằng đây là nơi đầu tiên đạo Phật du nhập vào nước ta. Chùa Hàng là điểm đến thú vị để tìm hiểu về lịch sử Phật giáo và tín ngưỡng dân tộc. Vì vậy, ở đây luôn có nhiều du khách, phập tử đến tham quan, chiêm bái. Bên ngoài chùa Hang Đồ Sơn là cảnh sắc núi non, mây trời, biển cả và tượng Phật Quan Âm. Bên phải là nhà thờ tổ, tiếp theo là tòa tháp. Mặc dù đã trải qua nhiều lần tôn tạo nhưng, kiến trúc của chùa Hang Đồ Sơn “Tiền Phật, hậu Thần” về cơ bản vẫn không thay đổi. Trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước, chùa Hang hiện nay không còn nằm cheo leo trên bờ biển mà đã lùi xa cách khuôn viên chùa cũ hơn 100 m. Nhận thức được nghệ thuật kiến trúc chùa Hang là một di sản văn hóa quan trọng nên ban quản lư chùa cùng cơ quan quản lý văn hóa quận, thành phố quan tâm bảo tồn, tôn tạo thường xuyên.

Tháp Tường Long hay còn gọi là chùa Tháp hoặc tháp Đồ Sơn được xây dựng vào thời vua Lý Thánh Tông - giai đoạn Phật giáo phát triển mạnh mẽ và được tôn làm quốc đạo. Công trình được xây trên bãi đất rộng khoảng 2.000m2 với 9 tầng, chiều cao 100 thước. So với các công trình kiến trúc thời bấy giờ, công trình Phật giáo này được xem như ngọn tháp cao nhất với vị trí trên đỉnh núi cao 128m so với mục nước biển. Theo các bản thuyết minh về chùa Tháp, nơi đây được xây dựng ngoài mục đích phục vụ cho tín ngưỡng, tôn giáo còn là đài quan sát nhằm theo dõi các biến động phía Đông Bắc. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tháp Tường Long đã trở thành một di tích khảo cổ học. Người ta đã tìm thấy phế tích tháp với nền móng hình vuông, lòng tháp rỗng, trên các viên gạch vẫn còn hiện những hàng chữ nổi bằng tiếng Hán: “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”. Năm 2007, tháp Tường Long Hải Phòng đã được phỏng dựng lại và chính thức được khánh thành vào năm 2017. Tháp mới cao 9 tầng, vỏ tháp được xây dựng bằng gạch gốm, cách trang trí tháp giữ được những nét đặc trung của nghệ thuật kiến trúc thời Lý với các hoa văn, họa tiết mềm mại, tinh xảo.

Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo của Hải Phòng còn thể hiện ở các di tích cổ như Chùa Mỹ Cụ ở huyện Thủy Nguyên; Chùa Điềm Niên - Vĩnh Bảo; Chùa Đồng Giới - An Dương; Chùa Linh Quang - Cát Bà; Chùa Mét ở huyện Vĩnh Bảo; chùa Trung Hành ở quận Hải An; Chùa Dư Hàng ở quận Lê Chân; Chùa Vẽ ở quận Ngô Quyền; Chùa Vàng Thiên Chúc ở quận Đồ Sơn; Chùa Phổ Chiếu ở quận Lê Chân; Chùa Đáy ở huyện Vĩnh Bảo; Chùa Lô Trạch ở huyện Vĩnh Bảo… tính nghiêm luật trong thiết kế, phong thủy đẹp. Có thể kể ra đây kiến trúc chùa Mỹ Cụ ở huyện Thủy Nguyên nằm theo thế ngũ linh: phụng, long, quy, hổ, tượng. Theo thứ tự từ chân đến lưng chừng núi, chùa được sắp xếp theo thứ tự: thượng, trung, hạ. Xung quanh chùa là rừng cây rậm rập, sum suê. Ngôi chùa này đã có lịch sử từ thời nhà Đinh (968 - 980). Chùa là nơi tu hành của Tuệ Trung Thượng Sỹ - thầy dạy của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Chính vì những đặc điểm kiến trúc độc đáo cùng với bề dày lịch sự đã mang đến cho tổng quan nghệ kiến trúc Phật giáo của Hải Phòng một nét riêng biệt.

Hiện nay tại thành phố Hải Phòng, nhiều công trình kiến trúc Phật Giáo được tu bổ, nâng cấp nhưng đã tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về kỹ mỹ thuật. Mang lại những công trình kiến trúc Phật Giáo đạt yêu cầu nghệ thuật. Có thể kể ra đây các công trình kiến trúc Phật Giáo đạt yêu cầu nghệ thuật. Có thể kể ra đây các công trình kiến trúc Phật Giáo đạt yêu cầu nghệ thuật. Có thể kể ra đây các công trình kiến trúc Phật Giáo mới được tu bổ mang đến những điểm nhấn kiến trúc đẹp trong thành phố Hải Phòng. Đó là: Chùa Nam Hải - Trụ sở thành hội Giáo hội phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng; chùa Long Hoa - trên núi Voi ở huyện An Lão; Chùa Đỏ ở quận Ngô Quyền; chùa Thiểm Khê ở huyện Thủy Nguyên; Chùa Đồng Dụ ở huyện An Dương; Chùa Hòa Liễu ở huyện Kiến Thụy; Công trình trường trưng cao đẳng Phật học hiện đang được xây dựng tại xã Đại Bản, huyện An Dương… đó là những công trình kiến trúc Phật Giáo đã và đang được tu bổ, xây dựng với nghệ thuật kiến trúc đạt được giá trị thẩm mỹ cao, mang sắc thái vùng miền cửa biển Hải Phòng.

Chính bởi yếu tố địa lý của thành phố, nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo của Hải Phòng trong các di tích cổ đã được hình thành theo khu vực dân cư sinh sống, trên núi cao, vùng đồng bằng và ngoài hải đảo. Đặc biệt với bề dày lịch sử là địa phương được tiếp cận và truyền bá Phật giáo ngay từ những ngày đầu sơ khai, qua con đường truyền đạo chính từ biển Đông như các địa danh Nê Lê - Đồ Sơn, hay những di tích khảo cổ được tìm thấy trên đảo Cát Bà và một phần từ đường bộ; Đã tạo cho nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo của Hải Phòng một nét riêng biệt độc đáo. Đó là những ngôi chùa được xây trong hang động; đó là những ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Đinh, nhà Lý, nhà Trần, nhà Nguyễn với nghệ thuật đặc sắc, phong thủy độc đáo. Đó là những ngôi chùa được xây dựng trên đảo xa, nơi vùng biên hải, như mốc chủ quyền nước Việt.

Mong rằng sau hội thảo này, chúng ta sẽ có thống kê chi tiết hơn nữa về nghệ thuật Phật Giáo ở Hải Phòng; Từ đó đề ra những tiêu chí mang đầy đủ định tính và định lượng, nhằm xác định một hệ qui chiếu trong công tác bảo tồn và duy tu các công trình kiến trúc Phật giáo cổ ở Hải Phòng. Qua đó khẳng định tinh hoa tư tưởng Phật giáo trong lòng văn hóa dân tộc; khẳng định vị trí, vai trò của Phật giáo với những giá trị văn hóa trong đó có nghệ thuật kiến trúc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hải Phòng nói riêng và các tỉnh thuộc Xứ Đông xưa nói chung.

 

Nguồn bài viết in trong: “Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo xứ Đông

trong dòng chảy văn hóa dân tộc” Tr275 - Tr278

 

Tác giả: admin

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây