Nguồn gốc, ý nghĩa tên làng, xã, huyện Tiên Lãng
- Thứ năm - 06/06/2024 03:40
- In ra
- Đóng cửa sổ này
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CÁCH ĐẶT TÊN LÀNG, XÃ THỜI XƯA
Theo sử cũ và các tài liệu khác thì làng xã của người Việt có từ thời Lê Sơ. Về danh xưng hành chính của làng xã, tùy theo từng trường hợp mà có thể gọi là xã, thôn, vạn, ấp, trại. Việc đặt tên gọi ( đại danh) cho từng làng xã cụ thể cũng có nhiều cách khác nhau, Dễ nhận biết nhất là làng xã được đặt tên theo đặc điểm vị trí tự nhiên ( yếu tố địa lý) ví như làng Giang Khẩu theo nghĩa Hán Nôm thì Giang nghĩa là sông. Khẩu là cửa, vậy Giang Khẩu tức là làng nằm gần cửa sông.
Giao Thủy là làng ở chỗ có nước giao nhau.
Có làng xã được đặt tên theo cây trồng chủ yếu của cư dân vùng đó như Lam Điền ( ruộng chàm), Quất Lâm ( rừng quýt), Ngân Bồng ( cây cỏ quý). Có làng được đặt theo nghề nghiệp như làng Đan ở Tiên Cường, làng có nghề đan tre nổi tiếng.
Để Xuyển ( Đại Thắng), Để là đáy, Xuyên là sông, xa xưa làng có nghề đóng đáy sông. Có làng lấy tên theo quê gốc đặt tên cho quê mới, có làng xã lấy tên theo ý trí, ước nguyện như Đại Thắng, Quyết Tiến, Tiên Tiến, Vinh Quang. Có làng đặt tên có ý nghĩa bóng bảy ( tức dùng mỹ từ) ... như vậy tên làng xã ở Tiên Lãng gắn chặt với đặc điểm tự nhiên vùng sông nước ven biển, với nghề nghiệp hoặc ý chí ước vọng của con người khi mới lập làng và gắn bó với tên gọi đó qua nhiều thế hệ. Nhiều người con đi làm ăn xa vẫn luôn tự hào nhớ về quê hương với tên làng, tên xã của mình.
Không phải tên làng xã của Việt Nam nói chung, tên làng xã của Tiên Lãng nói riêng đều giữ nguyên từ thủa ban đầu cho đến nay. Ngay từ thời phong kiến, do kị húy, do tách lập làng mới hoặc vì lý do nào đó, làng xã có sự thay đổi tên gọi, ví dụ xã An Cương, thuộc tổng An Cương đổi thành xã Ninh Duy, tổng Ninh Duy, xã Bảo Kê đổi thành xã Phú Kê do phạm húy. Hay do sáp nhập mà đổi tên làng như Lao Chử sáp nhập với Lao Khê thành Chử Khê... Cuộc sống luôn diễn ra dưới muôn hình vạn trạng trong mỗi cộng đồng làng xã. Nhưng nó luôn gắn kết giữa con người với con người bởi các thiết chế, những mối quan hệ và các giá trị truyền thống khác, những giá trị đó luôn luôn tồn tại và ngày càng cần được lưu giữ và phát triển.
II. VỀ ĐỊA ANH LÀNG, XÃ VÀ HUYỆN TIÊN LÃNG
Trước hết nói về huyện Tiên Lãng.
Tiên Lãng là vùng đất “ đầu sóng ngọn gió”. Nằm ở phía tây nam thành phố Hải Phòng. Vùng đất này có vị trí đặc biệt từ tên gọi đến địa bàn, cương vực, trong đó yếu tố cổ và mới ( do lấn biển) hòa trộn, xen kẽ. Huyện Tiên Lãng được hai con sông Văn Úc và Thái Bình từ ngàn vạn năm đã bòi đắp lên tầng tầng lớp lớp phù xa màu mỡ. Phía trước mặt là biển cả mênh mông, dẫu có dữ dằn song cũng tạo nên cho Tiên Lãng một vị thế và tiềm năng về nhiều mặt mà không phải nơi nào cũng có được. Cũng chính trên mảnh đất này, người dân Tiên Lãng, với chất hào sảng của sông nước biển cả lại thêm cái đức thuần phác đôn hậu cần cù của “ nhà nông”, đã đổ mồ hôi xương máu để bảo vệ và xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
Căn cứ vào những nghiên cứu về sử học, khảo cổ học và các ngành khoa học khác thì từ xa xưa con người đã tụ cư ở vùng đất này. Từ tổ tiên xa xưa đã khai hoang lập ấp. quai đê lấn biển, gieo lúa trồng màu, bắt tôm đánh cá để tồn tại và phát triển. người dân nơi đây gắn bó mật thiết với nhau bằng thiết chế cộng đồng làng xã, máu mủ ruột thịt, để chống lại thiên tai, bão lũ. Đặc biệt là chống giặc ngoại xâm.
Về tên gọi của huyện ( đại danh) Tiên Lãng: Tiên nghĩa là trước, Lãng nghĩa là sáng, có nghĩa là vùng đất được đón ánh sáng trước (sớm). Địa danh được đặt theo yếu tố vị trí địa lý.
Năm Quang Thuận thứ 10 ( 1469), huyện có tên là Tân Minh, Tân có nghĩa là mới, Minh là sáng, cũng có nghĩa là vùng đất được đón ánh sáng mới nhất trong ngày.
Huyện nằm ở phía Tây Nam thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố 18km. Bắc giáp sông Văn Úc, tây nam giáp sông Thái Bình, tây bắc giáp huyện Thanh Hà và huyện Tứ Kỳ ( tỉnh Hải Dương), đông giáp vịnh Bắc Bộ.
Diện tích tự nhiên gần 200km2 , dân số 155.000 người, đến năm 2015, có 23 đơn vị hành chính cấp xã ( thị trấn) gồm 01 thị trấn huyện lỵ ( Thị trấn Tiên Lãng) và 22 xã gồm: Đại Thắng, Tiên cường, Tự Cường, Tiên Tiến, Quyết Tiến, Khởi Nghĩa, Tiên Thanh, Cấp Tiến, Bạch Đằng, Đoàn Lập, Kiến Thiết, Quang Phục, Toàn Thắng, Tiên Minh, Tiên Thắng, Bắc Hưng, Nam Hưng, Đông Hưng, Tây Hưng, Hùng Thắng, Tiên Hưng, Vinh Quang.
Tên gọi Tiên Lãng có từ đời Thành Thái, Thời cổ vốn là huyện Bình Hà. Năm 1469, đặt tên là Tân Minh. Theo sử cũ, huyện Tiên Lãng thành lập từ đời Lê Sơ, niên hiệu Thuận Thiên ( 1428 – 1433) do chia huyện Bình Hà làm hai: Nửa trên vẫn gọi là Bình Hà ( Sau đổi thành Thanh Hà), nửa dưới đặt tên là Tân Lục Minh, thường gọi là Tân Minh ( trừ một số bia ký, văn kiện, thần phả, tộc phả mới ghi đầy đủ là Tân Lục Minh).
Đời Lê Kính Tông ( 1600 – 1619) vì kiêng tên húy của Lê Kính Tông là Duy Tân nên đổi chứ Tân ra chữ Tiên. Lúc mới lập huyện, do huyện lỵ đặt ở làng Mè ( tên nôm) còn gọi là làng An Mỗ này là thôn Hòa Bình, xã Tiên Cường nên có tên là Huyện Mè. Huyện lỵ sau lại chuyển xuống khu chợ vườn cũ thuộc địa phận thôn Đông Ninh, nay thuộc xã Tiên Minh. Lần thứ ba, khi thành lập tỉnh Kiến An (1906), huyện lỵ được chuyển về đại phận Cựu Đôi, thị trấn Tiên Lãng ngày nay.
Thời Lý – Trần, huyện Tiên Lãng thuộc Hồng Lộ, sau thuộc phủ Nam Sách của Lộ Hồng. Thời thuộc Minh là một phần của huyện Bình Hà, sau tách ra thành Thanh Hà và Tân Minh, ranh giới tự nhiên là sông Mía. Đời Lê Thuận Thiên ( 1428 – 1433), huyện này thuộc Đông Đạo. Đời Lê Diên Ninh ( 1454 – 1459) thuộc lộ nam Sách Hạ. Năm Quang Thuận thứ 7 ( 1466) thuộc thừa tuyên Nam Sách. Năm Quang Thuận thứ 10 ( 1469) là huyện Tiên Minh thuộc phủ Nam Sách Hạ. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) thuộc phủ Ninh Giang. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) thuộc phủ Nam Sach, tỉnh Hải Dương. Năm tự Đức thứ 5 (1852) huyện Tiên Minh do huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương kiêm nhiếp. Đời Thành Thái đổi là Tiên Lãng. Ngày 20/04/1893, toàn quyền Đông Dương ra nghị định sáp nhập huyện Tiên Lãng từ tỉnh Hải Dương vào tỉnh Hải Phòng. Từ ngày 31/01/1898, huyện Tiên Lãng thuộc tỉnh Phù Liễn. Sau đổi thành Kiên An.
Số lượng tên gọi tổng, xã, thôn trên địa bàn huyện Tiên Lãng từ 1469 đến trước năm 1945 có nhiều thay đổi. Khi mới thành lập, huyện có 61 xã, 12 trang. Đến trước 1913 có 12 tổng với 93 xã, thôn. 12 tổng gồm: Đại Công, Kinh Khê, Ninh Duy, Hà Đới, Phú Kê, Kinh Thanh, Tử Đôi, Cẩm Khê, Kỳ vĩ, Hán Nam, Dương Úc, Duyên Lão.
Đời Đồng Khánh có 12 tổng với 96 xã, thôn; tên tổng xã có một số thay đổi như: Dương Úc đổi thành Dương Áo. Nhiều xã có tên Hoa, Đường đượi đổi gọi. Một số thôn lên xã hoặc lập mới.
Đến trước 1901, huyện có thêm tổng Xuân Úc và một số xã ( tổng Kinh Thanh đổi tên thành Kinh Lương): gồm 13 tổng, 99 xã. Từ 17/02/1906 đến trước năm 1945 thuộc tỉnh Kiến An với 13 tổng như danh sách năm 1901. Từ năm 1946 đến 1948, huyện Tiên Lãng thuộc liên tỉnh Hải - Kiến theo phân chia hành chính của chính quyền cách mạng. những năm kháng chiến chống pháp, chính quyền Bảo Đại đổi gọi là quận hành chính Tiên Lãng, ngày 19/01/1950 chuyển về tỉnh Vĩnh Ninh quản lý ( cùng với huyện Vĩnh Bảo, Ninh Giang). Đến ngày 31/08/1953 lại cắt trả về tỉnh Kiến An.
Ngày 14/01/1959, sáp nhập hai xã Minh Lãng và Thái Lãng thành xã Vinh Quang. Ngày 17/10/1962, thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An hợp nhất thành thành phố Hải Phòng. Tiên Lãng là huyện ngoại thành. Từ 1962 – 2015, trên địa bàn huyện Tiên Lãng chỉ có một vài thay đổi. Ngày 18/05/1981, chia xã Chấn Hưng thành hai xã Nam Hưng và Bắc Hưng. Ngày 18/03/1986, thành lập xã Đông Hưng và xã Tây Hưng. Ngày 6/03/1993, thành lập xã Tiên Hưng. Ngày 14/02/1987, thành lập thị trấn Tiên Lãng trên cơ sở giải thể xã Minh Đức ...
Trên đại bàn huyện có nhiều sông lớn chảy qua sông Văn Úc chảy từ thôn Xuân Cát, xã Đại Thắng đến xã Vinh Quang, đổ ra biển ở cửa Văn Úc, dài 26km; sông Thái Bình chảy qua thôn Giang Khẩu, xã Đại Thắng đến xã Đông Hưng, dài 34km; sông Mía ở phía tây bắc huyện ( là ranh giới hai huyện Tiên Lãng – Thanh Hà). Sông Mới là con sông đào từ tháng 03/1936 đến năm 1940, dài 3km, nối sông Thái Bình với sông văn Úc...
Huyện có nhiều đầm hồ lớn như: đầm Lộc Trù ( Tiên Thắng). Đầm vòng giữa hai xã Đoàn Lập và Bạch Đằng, diện tích 90 ha. Đầm Nhân Vực giữa xã Đoàn Lập và Cấp Tiến rộng 100 ha. Vốn đây là lòng sông cũ của sông Thái Bình. Đầm Thái Lai là một khúc sông cổ chết. Ngoài ra còn một số kênh mương và hệ thống cống lớn như: Cống Đầm, Cống Đôi, Cống Dương Áo...
Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới biển, nhiệt độ trung bình năm từ 23 – 24oC, cao nhất 38 – 39oC, thấp nhất 4 - 5oC, lượng mưa trung bình 1.719mm/năm, thường có bão lớn vào các tháng 7,8,9.
Trên địa bàn, ngoài đường thủy còn có đường bộ gồm quốc lộ 10 qua huyện với 3.5km, đường trục huyện là đường 25 và đường 212 dài 36km, đường 354, ngoài ra còn có các đường liên xã, liên thôn...
Kinh tế của huyện chủ yếu là nông nghiệp với gần 10.000 ha đất canh tác, từ xa xưa đã có đê ngăn mặn. Đến năm 2000, dự án thủy lợi Nam sông Mới hoàn thành, xây mới thêm cống Rỗ 3 để lấy nước ngọt từ sông Mới, cải tạo 12km kênh đại thủy nông, nạo vét hàng trăm km kênh mương cấp 2, cấp 3 và sửa chữa, nâng cấp hệ thống tưới tiêu, đã chủ động tưới tiêu chi diện tích đất canh tác của 20 xã, thị trấn phía Nam sông Mới. toàn huyện có 75km đê sông, đê biển, 64 cống dưới đê và 1.300km kênh mương nội đồng.
Ngoài trồng trọt (chủ yếu là lúa) nghề chăn nuôi ( lợn, gà, vịt,...) và đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản cũng bước đầu phát triển. Đặc biệt nổi tiếng từ xưa là cây thuốc lào ( nhất là vùng Hán Nam, An Tử Hạ thuộc xã Kiến Thiết) và cây cói.
Về đặc sản thuốc lào Tiên Lãng, có câu ca dao:
Thuốc lào Tiên Lãng
Chồng hút vợ say
Thằng bé châm đóm lăn quay ra nhà
Có ông hàng xóm đi qua
Ngửi thấy khói thuốc say ba bốn ngày.
Nghề thủ công xưa chủ yếu ở một số địa phương: Xe quại đan manh ở Minh Đức, Bạch Đằng; làm võng, bện thừng ở Cương Nha, An Dụ ( xã Khởi Nghĩa); dệt chiếu ở Lật Dương ( Quang Phục), Kiến Thiết; Nhuộm vải ở Thọ Hàm ( Phú Cơ) xã Quyết Tiến; Rèn đúc ở Đại Thắng, Minh Đức, nghề dệt vải ở Cẩm La, Phương Lai...
| Trích trong cuốn Nguồn gốc, ý nghĩa địa danh làng, xã, Huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng Chủ biên: Thạc sĩ Vũ Minh Đức |