Những hoạt động xã hội - Văn hóa nổi trội của Hòa thượng Thích Trí Hải thời kỳ cách mạng tháng 8/1945
- Thứ tư - 20/11/2024 01:52
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Hoà thượng Thích Trí Hải
Nguyễn Khắc Phòng
Câu lạc bộ Hải Phòng học Liên hiệp các KHKTHP
Câu lạc bộ Nghiên cứu giới thiệu
Danh Nhân Và Tài Năng – Trung tâm văn hoá
Sau hơn 50 năm hành đạo và hoạt động xã hội - văn hoá, Đại lão Hoà Thượng Thích Trí Hải đã để lại một di sản lớn lao thuộc nhiều lĩnh vực. Trải qua các lần Hội thảo ở Trung ương và Hải Phòng các nhà nghiên cứu đã có nhiều bài viết giá trị về cuộc đời và sự nghiệp của Đại lão Thích Trí Hải.
Trong cuộc toạ đàm này chúng tôi muốn làm sáng tỏ thêm về những hoạt động xã hội – Văn hoá thời kỳ trước và sau cách mạng tháng tám của Thượng Toạ. Mong qua cuộc toạ đàm này, chúng tôi góp thêm tư liệu, nhất là tư liệu về hoạt động của Ngài đối với Phật giáo Hải Phòng.
I. Dấu ấn của Hoà Thượng trong hoạt động xã hội – văn hoá:
Từ thuở thiếu thời, khi bắt đầu xuất gia ( năm 1924), Hoà thượng Thích Trí Hải đã nhận thấy: “ Tinh thần Phật giáo rất thiết thực, lợi ích cho chúng sinh trong đời hiện đại và vị lai”. Đồng thời Ngài cũng ôm ấp bao hoài bão lớn là: “ Chấn chỉnh tổ chức Phật giáo nước nhà, bảo tồn tinh thần dân tộc” … Trước hết làm thế nào trong giới tăng ni phải có nhiều người đủ tài đức, để duy trì việc hoằng hoá, phải trừ sạch những điều mê tín dị đoan đã pah trộn vào Phật giáo như tệ hại về vàng mã, đồng bóng … phải cho tinh thần từ bi, trí tuệ, bình đẳng, dũng mãnh, tinh tiến của Phật giáo được phát huy, để bốn bể cho tinh thần dân tộc đã có từ ngàn xưa, như đời Đinh, Lê, Lý, Trần …
Từ nhận thưics và hành động như thế, Ngài cũng tự rèn luyện đủ Đức kiên nhẫn để bước vào cuộc hành trình tầm sư học đạo. Chuyến du hành sang Trung Quốc với ước nguyện gặp được Hoà thượng Thái Hư, nhà lãnh đạo Phật giáo tầm cỡ lớn ở Trung Quốc. Nhưng khi gặp qua đàm đạo với vị lãnh đạo Phật giáo hàng đầu của Trung Quốc, Thượng toạ Trí Hải và Thượng toạ Mật Thế đã nhận ra trong hoàn cảnh kháng chiến chống Nhật và tình trạng Phật giáo cũng “phức tạp”, “ xuống cấp” tại Trung Quốc như Việt Nam.
Sau 11 tháng đi tầm sư học hỏi không đạt sở nguyện, các Thượng toạ trở về nước với biết bao nuối tiếc. Nhưng cũng từ chuyến đi ấy, sau này Thượng toạ viết về Phật giáo Việt Nam. Ngài nhớ lại tình cảm các nhà sư Việt sang Trung Quốc, chẳng nhà sư Trung Quốc nào biết đến nước Việt Nam. Vì vậy, Ngài rút được kết luận quan trọng: “ Thật không còn nhục gì bằng nhục mất nước. Mất nước, không những mất hết tất cả tự do, hạnh phúc và mọi người đều mất hết quyền lợi hạnh phúc mà đến cả cái tên Nước ( Việt Nam) cũng bị mất hết không còn ai biết đến …”
Thượng toạ Trí Hải ở Trung Quốc chứng kiến cảnh nhân dân Trung Quốc chạy loạn, bị phát xít Nhật ném bom giết hại, tăng ni phật tử, chùa chiền không được bình yên hành đạo: “ Vào chùa nào cũng thấy toàn quân nhân đóng, có chùa được dọn làm bệnh viện. Sự học hành nhiều nơi đã nghỉ hẳn, để thanh niên ra làm việc cứu thương ngoài chiến trường”.
Sau khi từ Trung Quốc về nước Ngài đau đớn về Nỗi nhục mất nước và Tên Nước Việt Nam không còn ai biết đến. Đây là sự giác ngộ của Hoà thượng trong bối cảnh lịch sử dân tộc Việt Nam, ở thời điểm chiến tranh thế giới lần thứ hai lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những nhà cách mạng Việt Nam đề ra chính sách đoàn kết dân tộc, rộng rãi nhằm tập hợp hầu hết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, tôn giáo … tán thành đường lối chủ trương giải phóng dân tộc, sẵn sàng gia nhập tổ chức cứu nước của Mặt trận Việt Minh.
Đó là thời điểm lịch sử đặc biệt và cũng là vận hội của nước Việt Nam đang chuyển động trên con đường giải phóng dân tộc. Trên tờ Đuốc Tuệ ( Số 92 – 1/9/1938) Ngài đưa ra quan điểm liên hệ mật thiết giữa Phật giáo với nhân gian … là phải vượt khó hoà, nhập và bắt kịp xu thế “ Hiện nay khắp hoàn cầu đâu đấy hết sức tìm lấy hoà bình, để mưu cầu an lạc cho nhân loại”. Trên thực tế trong công cuộc vận động giải phóng đất nước ( 1939 – 1946) ngày càng có nhiều tăng ni, Phật tử tại nhiều chùa các nhà sư tận tình giúp đỡ Việt Minh. Thí dụ, nhiều chùa ở Hà Bắc đã trở thành hệ thống trạm giao thông liên lạc, nuôi giấu đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, bảo đảm cho một số cuộc họp của Trung ương các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Văn Tiến Dũng … đều khoác áo cà sa đi hoạt động cách mạng.
“ Ngôi chùa cổ, trạm giao thông sứ uỷ
Tiếng chuông chùa Thành tín hiệu hội quân”
Hoà thượng Võ Giác Thuyên cảm phục bức thư tâm huyết của cán bộ Nguyễn Văn Tuệ ( Khoác áo nhà sư):
“ Đạo Phật từ bi cốt cứu đời
Bồ Đề ánh sáng toả nơi nơi
Chúng sinh chìm đắm trong đau khổ
Sao nỡ ngồi yên cõi nát bàn!”
Mà sẵn sàng giúp đỡ tư lệnh chiến khu Đông Triều Nguyễn Bình, Chùa Bắc Mã trở thành địa điểm huấn luyện và đại bản doanh của “ đệ tử chiến khu” ( miền Duyên Hải).
Các nhà tri thức, nhà văn hoá có tiếng như Hoàng Xuân Hãn, Đặng Thái Mai, Học Phi … bất chấp sự kiểm soát của Pháp – Nhật, vẫn tham gia phong trào văn hoá cứu quốc thực hiện phương châm văn hoá mới: Dân tộc, Khoa học, Đại chúng, đấu tranh cho nền văn hoá tự do và tiến bộ …
Hoà thượng Thích Trí Hải hoạt động trong hoàn cảnh sôi động đó Ngài đã mở rộng các hoạt động trên nhiều lĩnh vực: Đẩy mạnh công cuộc hoàn thành xây dựng chùa Quán Sứ ( Hà Nội) lập Trường Phật học ở Phủ Dực ( Thái Bình), mở mang khu chùa Yên Tử … Tích cực hợp tác với Thượng toạ Tố Liên, cư sĩ Thiều Chửu … Thành lập Tổng Hội Cứu Tế đóng tại chùa Quán Sứ, suy tôn Nhà học giả có uy tín làm Hội trưởng.
Nạn đói và chống đói là vấn đề bức bách nhất của xã hội Việt Nam lúc đó. Từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, từ Bắc Bộ đến Trị Thiên đã có 2 triệu người chết. Đây là do pháp và Nhật như thu thóc, ngăn cấm chuyên chở lương thực từ Sài Gòn và các tỉnh phía Nam ra miền Bắc … Việc thành lập Tổng Hội Cứu Tế ( từ đầu 1945) là một trong những hoạt động xã hội của Hội Phật giáo Bắc Bộ mà Hoà thượng Thích Trí Hải là một chiến sĩ tiên phong. Từ đầu tổ chức Phật giáo động viên được đông đảo Tăng ni, phật tử hăng hái tham gia phong trào quyên góp lương thực cứu đói có hiệu quả.
Khi chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà cử cụ Nguyễn Văn Tố làm Bộ trưởng bộ cứu tế - xã hội thì Hoà thượng Thích Trí Hải được chính phủ mời làm cố vấn cho Bộ trưởng ( sau ngày 28/8/1945). Trước tình hình mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cả nước phải chống lại Giặc đói, Giặc dốt, Giặc ngoại xâm, Hoà thượng cùng Tăng ni phật tử đã hăng hái tham gia với những hành động thiết thực, cụ thể: Đẩy mạnh hoạt động cứu đói, Tổ chức thanh niên vào hội Tăng gia cứu quốc, xung phong và tổ chức bình dân học vụ v.v..
Cũng chính trên cương vị “ Cố vấn cứu tế - Xã hội thường công tác trong Ban cứu tế trung ương của chính phủ tức cơ quan cứu đói giúp đồng bào …” mà Hoà thượng lại làm được nhiều việc cho Hội Phật giáo Việt Nam. Một trong những việc quan trọng có ý nghĩa to lớn: Ngay sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Hội Thanh niên Phật tử Việt Nam đứng đầu là bác sỹ Nguyễn Hữu Thuyết tổ chức Lễ kỷ niệm Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại chùa Quán Sứ ( Hà Nội). Chính Hoà thượng Thích Trí Hải và Hoà thượng Tố Liên đã đến Bắc Bộ phủ mời được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cố vấn Vĩnh Thuỵ cùng đến dự lễ được đông đảo đồng bào Phật tử hoan hỉ, nhiệt liệt hoan nghênh.
Trong những ngày cuối tháng 11 năm 1946, Hoà thượng Thích Trí Hải đã hoàn thành biên soạn và xuất bản các cuốn sách Nghi thức tụng niệm hàng ngày, Gia đình giáo dục, Nghi thức tụng niệm … có ý nghĩa lớn về giáo dục và cầu nguyện đối với tặng ni phật tử … Từ tiền bán sách, Hoà thượng đã đem tài trợ cho các cháu nhỏ mồ côi đang di chuyển ra hậu phương trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
II. Trọn đời với sự nghiệp của Phật giáo – Hoà thượng rất xứng đáng là nhân vật lịch sử của thành phố Hải Phòng:
Đại lão Hoà thượng Thích Trí Hải đã được đông đảo học giả trong và ngoài giới Phật giáo đánh giá rất cao về nhiều mặt. Từ trước tác văn hoá Phật giáo, tổ chức Chấn hưng Phật giáo, tinh thần yêu nước, thương dân và hoạt động xã hội từ thiện, xây dựng và mở chùa chiền …
Từ việc nghiên cứu những hoạt động xã hội, đảm đương cương vị cố vấn cho Bộ Cứu tế - xã hội và thường xuyên công tác trong Ban Cứu Tế Trung ương, hoà nhập được vào hàng ngũ công chức của chế độ mới còn rất nghèo, đêm ngày lo toan, làm việc hết mình, tự nguyện thực hiện chế độ “ Cơm nhà, việc nước”. Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ cùng với Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố đã góp phần xứng đáng vào chiến công đánh thắng Giặc đói là một trong 3 loại giặc đe dọa sự mất còn của chế độ dân chủ cộng hòa non trẻ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Hòa thượng vẫn khôn khéo hoạt động, giữ gìn được nhiều cơ sở của Phật giáo ở Hà Nội, Hải Phòng kể cả một số tổ chức Phật giáo. Tuy sống và hoạt động trong tổ chức Phật giáo trong vùng địch tạm chiếm Hòa thượng vừa phải tôn trọng luật lệ của chính quyền Bảo Đại và Liên Hiệp Pháp, song Ngài thấy rõ âm mưu “ chia để trị” của địch, vừa có hại cho đất nước, vừa bất lợi cho hoạt động Phật giáo. Hòa thượng tái lập nhà in Đuốc Tuệ, xuất bản tờ Tin tức Phật giáo, mở trường Tư thục, tiểu học ( Khuông Việt, chỉnh lý Hội Tăng già Bắc Việt) với tư cách là Đại biểu phật giáo Bắc Kỳ, Hòa thượng tích cực tham gia các hội nghị Phật giáo ở Huế ( tại chùa Tư Đàm) ở Campuchia, ở Nhật Bản tăng cường tở chức tăng già Bắc Việt, làm cơ sở cho sự thống nhất Phật giáo trên cả nước sau này.
Trước âm mưu và thủ đoạn của đối phương cưỡng ép di cư, Hòa thượng tích cực xây chùa ở Hải Phòng, vận động nhiều Phật tử ở Hà Nội – Hải Phòng, Nam Định, ở lại Miền Bắc.
Đây là sự kiện quan trọng trong thời kỳ lịch sử mới của đất nước. Trong tiểu sử Hòa thượng ghi rõ: “ Tháng 8 ( thực ra từ sau ngày 21/7/1954) khi đất nước bị chia làm hai dân chúng vẫn hoang mang, giữa cảnh kẻ ở người đi, Hòa thượng tự tay vẽ bản thiết kế xây dựng chùa Phật giáo, chi hội Phật giáo Hải Phòng. Ba tháng sau, chùa hoàn thành và Hòa thượng hành đạo ở đây cho tới ngày viên tịch ( 30/6/1979)”.
Đọc lại lời di chúc của Hòa Thượng, chúng ta đều thấy người là tấm gương sáng, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp phát triển, gắn bó giữa Phật giáo với dân tộc. Người thanh tản ra đi, vẫn tự hà lvowis sự nghiệp thống nhất Phật giáo, mong mỏi Phật giáo mãi mãi đồng hành với dân tộc.
Hải Phòng còn chưa biết và viết đầy đủ thân thế và sựu nghiệp của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Hải xứng tầm với một nhân vật lịch sử của thành phố.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nhân vật lịch sử Hải Phòng tập IV
2. Đại lão Hòa thượng Thích Trí Hải ( 1906 – 1979)
3. Nhật ký đi Trung Quốc du học ( Sa môn Trí Hải)
4. Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam ( HT Thích Trí Hải)
5. Tuyển tập Thiền sư Thích Trí Hải
6. Việt Nam Phật giáo sử luận III
7. Hồ Chí Minh về văn hóa – tôn giáo – tín ngưỡng
8. Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của ĐCS Việt Nam
9. Chùa Trấn Quốc
10. Hòa thượng Kim cương tử
11. Đến với quê hương Đức Phật
12. Hồ Chí Minh hiện thân của nền văn hóa hòa bình
13. Việt Nam thời Pháp đô hộ ( Nguyễn Thế Anh)
14. Lịch sử Việt Nam – Lê Thành Khôi
15. Về công tác Tôn giáo ( Hồ Chí Minh)
16. Văn hóa tâm linh – Nguyễn Đăng Dung
17. Văn hóa tâm linh Nam Bộ – Nguyễn Đăng Dung
18. Việt Nam Phong tục – Phan Kế Binh
19. Việt Nam văn hóa sử cương – Đào Duy Anh
20. Trần Nhân Tông với Thiền Phái Trúc Lâm.
Nguồn: Bài tham luận in trong:
“Kỷ yếu toạ đàm khoa học Sa Môn Thích Trí Hải,
một Danh Tăng lớn của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX,
một tấm gương đạo hạnh sống mãi trong lòng đạo pháp dân tộc”.