Phật giáo xứ Đông - Quá trình du nhập và phát triển đến thế kỷ X
- Thứ hai - 20/10/2025 03:33
- In ra
- Đóng cửa sổ này
2.1. KHỞI NGUỒN DU NHẬP
Phật giáo là một hiện tượng văn hóa từ nước ngoài truyền vào, đã được người Việt tiếp nhận và ứng dụng linh hoạt vào đời sống xã hội, đóng vai trò nhất định trong lịch sử dựng nước và giữa nước của dân tộc Việt Nam.
Đạo Phật được truyền vào nước ta từ bao giờ hiện vẫn chưa xác định chính xác thời điểm. Dưới thời vua A Dục trị vì tại Ấn Độ (273-232 TCN), nhờ sự ủng hộ của nhà vua nên đạo Phật đã được truyền đến nhiều xứ sở ngoài Ấn Độ. Các thương nhân Ấn theo đường biển đã đến Giao Châu buôn bán và truyền đạo Phật mới mẻ đến xứ này. Tiếp đó, các Tăng sĩ người Ấn tiếp tục tới truyền đạo. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Phật giáo truyền vào Giao Chỉ, trước hết từ hai nơi là Nê Lê (Đồ Sơn, Hải Phòng) hoặc Cửa Sót (Hà Tĩnh) rồi từ đó lan truyền tới Luy Lâu, thủ phủ của quận Giao Chỉ thời Bắc thuộc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Đây là một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương Đông vào đầu Công nguyên (cùng Lạc Dương và Bành Thành, Trung Quốc). Theo giáo sư Hà Văn Tấn và giáo sư Lê Mạnh Thát, đạo Phật được truyền vào nước ta từ thời Hùng vương. Các ông dẫn sách Lĩnh Nam trích quái, trong đó, truyện Nhất dạ trạch ghi lại việc Phò mã Chử Đồng Tử, cháu của vua Hùng thứ 3, cùng công chúa Tiên Dung là người Việt đầu tiên được nhà sư Phật Quang truyền dạy giáo lý đạo Phật tại núi Quỳnh Viên. Từ đó, Chử Đồng Tử và Tiên Dung du phương tìm thày học đạo. Sau này, An Thiền (Phúc Điền) viết Đạo giáo nguyên lưu, trong mục Đại Nam thiền học sơ khởi đã ghi tích Chử Đồng Tử: “Thời Hùng Vương, núi Quỳnh Viên, có Đồng Tử lên thảo am. Trong am có nhà sư tên Phật Quang. Đó là người Thiên Trúc, tuổi hơn 40, truyền Pháp cho Đồng Tử một cái nón và một cây gậy, nói rằng: Linh dị và thần thông ở đây cả. Đồng Tử đem đạo Phật truyền cho Tiên Dung. Vợ chồng Tiên Dung bèn học đạo. Đến buổi chiều ngày trở về, giữa đường cần làm nơi tá túc, bèn dựng gậy che nón, đến canh ba thì thành quách lâu đài, màn gắm màn the, kim đồng, ngọc nữ, tướng sĩ, thị vệ đầy cả sân chầu”1.
Theo Thiền uyển tập anh, để trả lời Hoàng Thái hậu Ỷ Lan nhà Lý về sự xuất hiện đạo Phật ở nước ta, Quốc sư Thông Biện dẫn lời sư Đàm Thiên (542-607) trình vua Tùy Cao Tổ: “Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp, thì ở Luy Lâu đã có tới hai mươi ngôi bảo sát, độ được hơn năm trăm vị tăng, và dịch được mười lăm quyển kinh rồi” . Như vậy là do Phật giáo đã truyền đến Giao Châu trước. Bấy giờ
______________
1 Dẫn theo: Lê Mạnh Thất: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 2006, tr.29
ở bên ấy đã có những vị Tăng như Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác v.v...1. Như vậy, từ đầu đạo Phật truyền vào Giao Chỉ (Việt Nam) trực tiếp từ Ấn Độ rồi từ xứ Việt truyền sang Giang Đông phương Bắc, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây.
Thời Bắc thuộc, Phật giáo Đại thừa (Mahayana, Cỗ xe lớn), một trong hai trường phái của đạo Phật (phổ biến tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Việt Nam, Hàn Quốc và Triều Tiên), được truyền từ Trung Hoa. Nho giáo du nhập và chữ Hán được đưa vào dạy. Phật giáo dần hòa hợp với tín ngưỡng của người Việt, phổ biến tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp, vốn là một loại tư duy đã xuất hiện từ thời nguyên thủy: Thế giới là sự phân đôi và kết hợp để phát triển như trời - đất, âm - dương, hươu - cá, chim - rắn, đàn ông - đàn bà, núi - biển, đất - nước.
Năm 542, Lý Bí lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Lương, xưng đế và lập nước Vạn Xuân (542-603). Ông cho dựng ngôi chùa mới lấy tên là Khai quốc, đặt tên cho con thứ là Lý Phật tử, có nghĩa là con Phật và lên ngôi vua năm 571. Năm 580, Ngài Tỳ ni đa lưu chi, người Nam Ấn Độ, đệ tử của Tổ Tăng Xán, là Tổ thứ ba của Thiên tông Đông Độ từ Trung Quốc sang Giao Chỉ truyền đạo cũng đến chùa Pháp Vân (chùa Dâu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) - nơi đây đã trở thành trung tâm Phật giáo từ cuối thế kỷ thứ II, lập nên thiền phái Tỳ ni đa lưu chi hay dòng thiền Pháp Vân (sơn môn Dâu). Đây là phái thiền đầu tiên tại Việt Nam, truyền được 19 đời từ năm 580 đến 12132.
Trong cảnh bị đô hộ, xã hội rối ren, bị áp bức, bóc lột, cuộc sống tăm tối, người dân đã tìm đến đạo Phật, do đó mà đạo Phật nước ta ngày càng phát triển. Năm 820, dòng thiền thứ 2 do Ngài Vô Ngôn Thông, từ Trung Hoa sang Việt Nam trụ tại chùa Kiến Sơ (đã có từ trước đó) làng Phù Đồng (Gia Lâm, Hà Nội) truyền đạo lập nên dòng thiến Kiến Sơ (sơn môn Kiến Sơ), truyền được 15 đời từ năm 820 đến năm 12313.
Các dòng thiền này (sơn môn Dâu và Kiến Sơ) có nhiều ảnh hưởng đến xứ Đông, trong đó, có vùng đất Hải Phòng ngày nay.
Từ dầu Công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp của đạo Phật. Thời kỳ đầu, do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha, tiếng Phạn là bậc đại giác ngộ, được phiên âm là Bút đa hay Bụt đà gọi tắt là “Bụt”. Bụt được dân gian tôn kính như một vị thần cứu giúp người tốt, như trong truyện Tấm Cám.
______________
1 Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga dịch, Nxb Hồng Đức, 2014, tr.84.
2 Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga dịch, Nxb Hồng Đức, 2014, tr.149-224.
3 Thiền uyển tập anh, Ngô Đức Thọ Nguyễn Thúy Nga dịch, Nxb Hồng Đức, 2014 (tr.27- 145) và Nguyễn Duy Hinh, Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa & Nxb Tôn giáo, 2009, tr.298.
2.2. PHẬT GIÁO HẢI PHÒNG TỪ KHI DU NHẬP ĐẾN THẾ KỶ X
Thời Hùng Vương, nền văn hóa có sự kết hợp với những thành tố Phật giáo vừa mới du nhập. Do vậy, những cư dân Việt từ rừng núi lần lượt tiến ra khai khẩn đồng bằng ven biển, trong họ vốn đã có ý niệm về đạo Phật. Khi vùng ven biển Hải Phòng dần hình thành những cộng đồng dân cư khá đông đúc là cơ sở kinh tế - xã hội cho việc du nhập của Phật giáo.
Thuở đó, Đồ Sơn là một đảo đất đá xen kẽ, cách đất liền khoảng 3km, rừng rậm đầy sản vật, nước ngọt dồi dào (năm 1914, đường từ nội thành sang đảo Đồ Sơn mới được mở). Ngư dân khắp mọi miền, nhất là vùng Thanh - Nghệ, đến sinh cơ, lập nghiệp. Trên đảo có một số hang động rộng rãi. Thuyền buôn, thuyền đánh cá đi men ven biển cập đảo này và từ đây theo các dòng sông sẽ đi sâu vào nội địa khá thuận tiện.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng vùng Đồ Sơn là một trong những điểm đầu tiên các nhà truyền đạo Phật từ Tây Trúc (Ấn Độ) đặt chân sớm nhất vào Giao Chỉ. Các nhà sư từ Thiên Trúc theo đường biển đến truyền Phật pháp từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Theo sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam, viết: “Có học giả dựa vào tài liệu Trung Hoa nói rằng, ở Giao Châu tại thành Nê Lê có bảo tháp của vua Asoka. Và học giả đó xác định thành Nê Lê, mà sử liệu Trung Hoa nói tới, chính là Đồ Sơn hiện nay”1.
Theo tác giả Đạo Phật Việt Nam2 khoảng 300 năm TCN, ở Giao Chỉ, tại thành Nê Lê, tên của vùng Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng ngày nay, có bảo tháp vua A Dục (Asoka), do các Phật tử địa phương xây nên, để tri ân nhà vua đã cử giáo đoàn tới đây để truyền đạo Phật. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của C.Madrolle, rằng Phật giáo truyền vào từ Nê Lê³. Hiện nay các thế hệ người Đồ Sơn còn lưu truyền chuyện vào cuối đời Hùng vương, ở đây có nhà sư Bần (sư Phật Quang), người Ấn Độ, lập ban thờ Phật tại hang núi (dân gọi là chùa Hang) và viên tịch tại đó. Ngài có giảng đạo cho Chử Đồng Tử.
Theo thần tích, miếu Thị Đa ở làng Cốc Liễn (nay thuộc xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy) cách chùa Hang không xa, có dòng sông Sàng đổ ra cửa Họng tại đảo Đồ Sơn, thờ Đông An tức Chử Đồng Tử. Tương truyền, sau khi được nhà sư Phật Quang truyền đạo Phật và pháp thuật, Chử Đồng Tử từ đảo trở về quê có ghé bến làng Minh Liễn (Cốc Liễn), đã cứu sống con bà Đa bị đuối nước. Nhớ ơn cứu sống, mẹ con bà Đa lập miếu thờ. Thấy linh ứng, dân làng thờ làm Thành hoàng. Thần tích làng Hán Nam (xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng) có ghi đến tích Đào Tiên nương, cùng dì ruột đi vãn cảnh Phật trên Yên Tử, đã gặp Hùng Nghị vương
______________
1 Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1988, tr.22.
2 Thích Đức Nghiệp: Đạo Phật Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, tr.21-22.
3 Hiện còn có những ý kiến chưa thống nhất về vùng đất Nê Lê.
(vua Hùng thứ 17) và trở thành đệ tứ Hoàng hậu. Cuối đời, bà ra hải đảo tu Phật. Như vậy, những tích truyện trên phù hợp với việc Chử Đồng Tử được nhà sư Phật Quang truyền đạo Phật được ghi trong tác phẩm Lĩnh Nam chích quái và Phật giáo có thể sớm được du nhập vào khu vực Đồ Sơn - Kiến Thụy thuộc Hải Phòng ngày nay. Theo học giả Lê Mạnh Thát, “... cho tới ít nhất những năm 380 đến 420 những người đi hái củi ở nước ta còn thấy được chùa và tháp do vua A Dục dựng tại thành Nê Lê”1.
Trong Đồ Sơn bát vịnh có bài thứ ba nhan đề Cốc tự tham thiền nói về chùa Hang. Bài thứ năm Tháp Sơn hoài cổ nói về tháp Dục Vương (Asoka). Từ đầu thời Lý, Đồ Sơn có tên là Tháp Nhĩ Sơn và thời Trần được chọn lập căn cứ thủy quân. Phải chăng tên Tháp Nhĩ Sơn nói lên việc trên núi có hai tháp Phật này.
塔 山 怀 古
古 塔 遺 墟 乱 草 堆
育 王 去 後 委 安 頹
千 鍾 寶 器 鳴 流 水
九 級 浮 屠 化 却 灰
樵 子 倚 柯 眠 石 磴
牧 兒 驅 犊 下 山 隈
登 高 欲 會 山 僧 講
何 処 鍾 声 扣 一 回
Phiên âm
Tháp Sơn hoài cổ
Cổ tháp di hư loạn thảo đôi,
Dục Vương khứ hậu ủy yên đồi.
Thiền chung bảo khí minh lưu thủy,
Cửu cấp phù đồ hóa kiếp hôi.
Tiều tử ỷ kha miên thạch đắng.
Mục nhi khu độc hạ sơn ôi.
Đăng cao dục hội sơn Tăng giảng,
Hà xứ chung thanh khấu nhất hồi.
______________
1 Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2006, tr.37
Dịch nghĩa:
Nhớ núi Tháp xưa
Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời,
Vua Dục đi vua sau cũng đổ rồi
Chuông nặng ngàn cân kêu đáy nước,
Tháp cao chín bậc hóa thành vôi,
Chú tiều dựng củi nắm đo đá,
Trẻ mục lùa trâu vội xuống đồi
Lên núi muốn cùng sư giảng kệ,
Chuông đâu mà thử đánh một hồi?
Hang núi dưới chân Mẫu Sơn được nhà sư chọn làm nơi đặt ban thờ Phật và giảng đạo, trở thành Cốc tự nổi tiếng. Chùa Hang (Cốc tự) là một hang đá xuyên sâu vào lòng núi, trên 20m, chia làm 2 bậc thềm ngoài và trong. Miệng hang rộng, lòng hình thang, phía trong cao chừng 1 mét, rộng 1,3m. Trước đây, trên vách hang có bài thơ vịnh Cốc tự. Bài “Cốc tự tham thiền”1 trong tập Đồ Sơn Bát vịnh đã tả chùa Hang:
谷 寺 參 禪
神 鬼 鑿 不 知 年
体 勢 安 排 若 自 然
屋 不 瓦 茨 階 不 砌
岩 如 墙 壁 石 如 椽
夜 明 献 果 蓮 臺 下
蜂 子 含 花 宝 案 前
濤 响 樵 歌 和 鳥 語
声 声 喚 醒 懶 僧 眠
______________
1 Tháp Dục Vương bị đổ nát
Phiên âm
Thần san quỷ tạc bất tri niên?
Thể lực an bài nhược tự nhiên.
Ốc bất ngõa tỳ giai bất thiết,
Nham như tường bích thạch như diên.
Dạ minh hiến quả liên đài hạ,
Phong tử hàm hoa bảo án tiền
Đảo ưởng tiêu ca hòa điểu ngữ,
Chung thanh hoán tỉnh lại Tăng miên.
Dịch nghĩa:
Thần quỷ nào đây đã tạc ra (chùa) tự bao giờ?
Hang này sắp đặt rất tự nhiên.
Mái hang như rêu xanh, bậc như đá mài,
Nhũ đá tựa vách tường, thềm tựa chiếu trải.
Đêm trăng chim dâng quả dưới đài sen,
Đàn ong ngậm hoa trước bàn thờ
Tiếng sóng, tiều ca, hòa chim hót,
Chuông ngân gọi tỉnh sư lúc ngủ say1
Từ đầu thế kỷ thứ III trước Công nguyên, cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm lược thắng lợi, Thục Phán, với tư cách là người chỉ huy chung (giữa hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt), đã thay thế Hùng Vương làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc. Ông xưng là An Dương vương, đóng đô tại Cổ Loa. Mặc dù nước Âu Lạc tồn tại không lâu, chỉ trong khoảng thời gian từ năm 208 đến năm 179 TCN, nhưng vẫn tiếp tục phát triển trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được từ nước Văn Lang của các vua Hùng. Trong quá trình dựng nước và giữ nước đó, người Việt có cũng đã xác lập được nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, còn gọi là Văn minh sông Hồng. Đây cũng là quá trình thâm nhập và mở rộng ảnh hưởng của đạo Phật tới nước ta. Theo đường thủy, đạo Phật tiếp tục được lan truyền nhanh chóng vào nội địa, bởi nó là một tôn giáo phù hợp với bản sắc văn hóa - tín ngưỡng các tộc người Á Đông. Khi cộng đồng làng xã ổn định thì các thiết chế làng xã từng bước được hình thành, trong đó, có nơi thờ tự của đạo Phật. Sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa Phật giáo với các thành tố của nền văn hóa bản địa tạo nên một sắc thái mới cho nền văn hóa cuối thời Hùng Vương và thời An Dương vương, ít nhất từ thế kỷ thứ II TCN trở đi.
______________
1 Tháp Dục Vương bị đổ nát
Năm 179 TCN, Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, mở đầu một thời kỳ đen tối, đầy đau thương và uất hận trong lịch sử nước ta, thường được gọi là thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, kéo dài đến năm 905 khi Khúc Thừa Dụ giành lại quyền tự chủ. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo được đông đảo người Việt tin theo, trở thành một trong những yếu tố tinh thần để bảo tồn bản sắc, chống sự đồng hóa tàn bạo của thế lực đô hộ. Khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43) bị đàn áp, nhiều tướng lĩnh về làng quê, sống ẩn mình trong những ngôi chùa. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc (170 TCN-905), Phật giáo vẫn bền bỉ cùng cư dân Việt mở mang bờ cõi và đấu tranh giành quyền tự chủ. Dù còn khó khăn trong cuộc sống, nhiều chùa, tháp vẫn được xây dựng và phát triển. Phật giáo đã đóng vai trò mới chống lại những âm mưu đồng hóa thâm độc của các thế lực phong kiến đô hộ phương Bắc.
Vào năm cuối Hán Linh Đế (năm 189), các nhà sư từ Thiên Trúc (Ấn Độ) tiếp tục truyền đạo Phật vào nước ta. Tiêu biểu là nhà sư Khâu Đà La đến lập am tu hành trên núi Phật Tích (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) và truyền đạo Phật. Ngài đã tới Luy Lâu (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), thủ phủ xứ Giao Châu, khởi dựng một trung tâm Phật giáo lớn. Di tích nay còn chùa Pháp Vân (chùa Dâu). Phật giáo Việt Nam đã hoàn chỉnh giai đoạn đầu làm nền tảng cho sự phát triển sau này. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo được dân chúng từ các nơi hội cư về vùng đất ven biển Hải Phòng coi như điểm tựa tinh thần cho công cuộc khai hoang, lấn biển đầy gian khổ. Các Phật tử dựng những am nhỏ thờ Phật và làm nơi thực hiện Phật sự ở làng Phụng Pháp, Đông Khê (phường Đông Khê, Quận Ngô Quyền), làng Hạ Đoạn (phường Đông Hải 1, quận Hải An), làng Do Nghi (xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên) và từ thế kỷ VI dựng chùa. Tiêu biểu là chùa Thiên Tộ, làng Phác Xuyên (xã Bạch Đằng) và chùa Đót Sơn, làng Kinh Lương (xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng).
Hoàng đồ củng cố Đót Sơn tự Di đà Phật bi, tạo dựng vào đời Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức 22 (1491) tại chùa Đót Sơn, cho biết chùa được xây dựng vào đời nhà Lương (502 - 577) đô hộ: “Chùa bắt đầu xây dựng từ Thủy tổ đời nhà Lương”, có lời minh:
Giáo lý đức Phật,
Lưu truyền ngàn năm.
Hiểu rõ ý nghĩa,
Từ ông đến cháu.
Tượng đã tạc xong,
Lưu truyền rộng khắp.
Tiếng lành còn mãi,
Bia đá ngàn năm ¹.
______________
1 Tác giả 8 bài thơ vịnh Đô Sơn là Hoàng Xuân Hoán, hiệu Miễn Trại, nhà Nho sống dưới triều Gia Long, Minh Mạng, là con trai của Tiến sĩ Hoàng Xuân Triếm, làm quan dưới triều Lê Hiến Tông và Lê Chiêu Thống, người xã Ngọc Xuyên, tổng Đồ Sơn.
Thời kỳ Giao Chỉ dưới ách đô hộ của nhà Tùy - Đường, Phật giáo vẫn tiếp tục được mở rộng. Chùa chiền mọc lên nhiều nơi, trong đó có chùa Vĩnh Linh (Do Nghi, xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên) được dựng năm 743.
Đạo Phật khi truyền vào đất Việt đã được các vị sư người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào dân tộc, tạo nên sắc thái của riêng Việt Nam. Phật giáo đã nhanh chóng dung hợp với tín ngưỡng bản địa của người Việt từ thời tiền sử (thờ tổ tiên, thờ mẹ, các thần mây, mưa, sấm, sấm, chớp, rừng, núi, nước, lửa, anh hùng dân tộc, người có công lập làng...). Đạo Phật thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống của người Việt là thờ Thần trong miếu, thờ Mẫu trong phủ. Tín ngưỡng thờ các thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp (các vị Tứ Pháp) đã được “Phật giáo hóa”. Các pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện được tạo tác theo chuẩn của một pho tượng Phật. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau, tạo nên các ngôi chùa “Tiền Phật hậu Thánh”, “Tiền Phật hậu Mẫu”. Do vậy, người Việt đã đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thành hoàng, Thổ địa, Anh hùng dân tộc... vào phối thờ. Cùng đó, yếu tố văn hóa, tín ngưỡng vùng miền cũng được thể hiện rõ trong đạo Phật của xứ ta. Ở miền đất ven biển Hải Phòng, ngoài nét chung, tính vùng miền cũng được thể hiện cụ thể trong kiến trúc và lễ hội chùa làng.
Như vậy, từ thời các vua Hùng dựng nước, khu vực Đồ Sơn (Nê Lê) Hải Phòng là một trong những nơi Phật giáo từ Ấn Độ được truyền trực tiếp vào nước ta. Trong thời kỳ Bắc thuộc, từ thế kỷ thứ VI, dòng thiền Pháp Vân (sơn môn Dâu) và giữa thế kỷ IX, dòng thiền Kiến Sơ (sơn môn Kiến Sơ) từ phương Bắc lần lượt truyền vào nước Việt cũng có nhiều ảnh hưởng đến xứ Đông, trong đó, có vùng Hải Phòng ngày nay. Tuy chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu cụ thể về sự phát triển của đạo Phật tại miền đất Hải Phòng thời đó, nhưng sự hiện diện của những cơ sở thờ tự, từ những am nhỏ ở các làng Phụng Pháp, Đông Khê, Hạ Đoạn đến ngôi cổ tự bề thế Thiên Tộ (Phác Xuyên, xã Bạch Đằng), Đót Sơn (Kinh Lương, xã Cấp Tiến) huyện Tiên Lãng, Vĩnh Linh (Do Nghị, xã Tam Hưng) huyện Thủy Nguyên... là chứng tích sinh động về thành tựu của đạo Phật ở xứ này. Đó cũng là cơ sở xã hội rất quan trọng để Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam và miền đất Hải Phòng rồi phát triển cực thịnh, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Nguồn bài viết in trong sách: “Lịch sử Phật Giáo thành phố Hải Phòng”
Nxb Tôn Giáo