ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, QUÂN VÀ DÂN THÀNH PHỐ ĐẤU TRANH VỚI ĐỊCH KHU VỰC 300 NGÀY, GIẢI PHÓNG THÀNH PHỐ
Đại tá Trần Quốc Huy,
Chủ tịch Chi hội Khoa học Lịch sử Quân sự
Hội nghị quân sự Trung Giã và khu vực 300 ngày
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, gian khổ, ác liệt của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn bằng chiến dịch Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm năm châu, chấn động địa cầu".
Ngày 21/7/1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ (Cộng hòa Thụy Sỹ) về lập lại hòa bình ở Đông Dương kết thúc. Theo đó, các nước tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào.
Được sự nhất trí của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp, diễn ra hội nghị quân sự Trung Giã, Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Thời gian diễn ra hội nghị: từ ngày 4 đến ngày 27 tháng 7 năm 1954;
Phía ta, đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm Trưởng đoàn. Phía Pháp, đại diện Bộ Tổng chỉ huy Quân viễn chính Pháp ở Đông Dương, do Đại tá Len-nuy làm Trưởng đoàn
Nội dung: bàn những vấn đề quân sự mà Hội nghị Giơ-ne-vơ đề cập và những vấn đề khác như trao trả tù binh, thực hiện ngừng bắn trên toàn bộ chiến trường, trình tự rút quân của Quân đội Pháp:
Hội nghị quy định thời gian quân đội Pháp tập kết rút khỏi miền Bắc Việt Nam: Khu vực Hà Nội (gồm Hà Nội, Hưng Yên): 80 ngày; tỉnh Hải Dương: 100 ngày; Khu vực tập kết 300 ngày ở vùng duyên hải Bắc Bộ bao gồm Kiến An, Hồng Quảng và hai huyện Kim Thành, Kim Môn thuộc tỉnh Hải Dương và Hải Phòng. Như vậy, thành phố Hải Phòng là khu vực rút quân cuối cùng trong khu vực 300 ngày. Như vậy, các tỉnh miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhưng thành phố Hải Phòng, tỉnh Kiến An vẫn trong khu vực 300.
Đấu tranh với địch trong khu vực 300 ngày
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã kết thúc, nhiều địa phương trên miền Bắc bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, nhưng Đảng bộ, quân và dân Hải Phòng - Kiến An lại bước tiếp vào cuộc chiến đấu mới - đó là thời kỳ đấu tranh với địch khu vực 300 ngày và giải phóng thành phố.
Hiệp định Giơ-ne-vơ đã được ký kết, nhưng với bản chất phản động, ngoan cố, thực dân Pháp cấu kế với đế quốc Mỹ tìm mọi cách hạn chế thắng lợi to lớn của nhân dân ta. Quân Pháp tại Hải Phòng liên tiếp vi phạm Hiệp định, tiến hành 133 cuộc vây ráp, hơn 200 lần nổ súng vào các khu dân cư, bắt 825 thanh niên Công giáo vào lính để “Bảo vệ Chúa”, giam giữ 517 người dân, bắn chết 9 người và đánh bị thương 167 người dân. Chúng tiến hành cưỡng bước giáo dân vào Nam theo Chúa, do đó, đồng bào nhiều tỉnh bị dồn về Hải Phòng, sống chen chúc, đói khổ trong các lều viện trợ của Mỹ ở các bãi cỏ sông Lấp, khu vực Thượng Lý; chỉ đạo bọn tay sai cướp đi hoặc phá hoại máy móc, tài sản, hồ sơ, tài liệu của thành phố với mưu đồ, khi ta vào tiếp quản thành phố chỉ có các xí nghiệp rỗng không, các công sở, bệnh viện không có phương tiện làm việc, thành phố không điện, không nước, Cảng Hải Phòng không đủ điều kiện cho tàu bè vào ra...
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, Ban chỉ đạo khu 300 được thành lập, với sự tham gia của Tỉnh ủy Kiến An, Thành ủy Hải Phòng, do đồng chí Đỗ Mười Ủy viên Trung ương Đảng làm Trưởng ban. Trên cơ sởphân tích thấu đáo tình hình, âm mưu của địch, Ban chỉ đạo khu 300 ngày đề ra những chủ trương, nhiệm vụ cấp bách, trước mắt phải làm, trong đó tập trung vào đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thấy rõ bản chất, âm mưu ngoan cố của địch, nhiệm vụ của cách mạng thời kỳ mới; tăng cường cán bộ cho nội thành đáp ứng yêu cầu tiếp quản thành phố; lãnh đạo quần chúng đấu tranh với địch chống bắt bớ, phá hoại máy móc, tài sản.
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo khu 300 ngày, nhân dân nhiều địa phương tổ chức mít tinh, biểu dương lực lượng, in ấn, phân tán tài liệu xuống tận cơ sở để mọi người dân thông chủ trương, chính sách. Nhiều địa phương, đơn vị tích cực xây dựng các đoàn thể cứu quốc và lực lượng dân quân tự vệ tại chỗ để làm nòng cốt đấu tranh với địch. Hàng ngàn người dân đi đắp đê Trung Trang và Kim Côn trong vùng địch vẫn kiểm soát; nhân dân Tiên Lãng, Vĩnh Bảo đắp đê sông Luộc, sông Hóa...góp phần đẩy mạnh tăng gia, sản xuất, bảo đảm đời sống nhân dân trước mắt và lâu dài.
Để đấu tranh trong nội thành, Ban chỉ đạo khu 300 ngày tăng cường 80 cán bộ cốt cán vào hoạt động hợp pháp; thành lập Ban cán sự nội thành để thống nhất lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời mọi tình hình. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta khôi phục cơ sở ở hầu khắp các xí nghiệp, đường phố, đặc biệt tổ chức được lực lượng tự vệ ở các xí nghiệp lớn như Cảng Hải Phòng, Nhà máy Xi măng, Sở toa xe... Với khẩu hiệu: “Máy móc là xương, là thịt của ta, ta phải giữ gìn, bảo vệ”, phương châm đấu tranh: “Đấu tranh có lý, có lợi, có chừng mực, tránh bị khiêu kích”, các tầng lớp nhân dân thành phố đấu tranh để bảo vệ máy móc, phương tiện sản xuất tài sản. Tiêu biểu là: Cuộc mít tinh lớn ở Nhà thương cạnh chợ Vườn Hoa, Nhà máy Xi măng, Cảng Hải Phòng, Xí nghiệp Hỏa xa, Nhà máy điện Cửa Cấm, Ty Kiều Lộ...300 ngày đêm với trên 200 cuộc đấu tranh với quân địch trong khu vực tập kết diễn ra hết sức quyết liệt. Điển hình là 3 vạn nhân dân nội thành, ngoại thành đấu tranh, buộc địch phải thả hết 300 anh em ở tù Căng Máy Chai mà chúng ý định đưa đi thủ tiêu.
Trong thời gian 300 ngày, công tác binh địch vận ở Hải Phòng, Kiến An đã được triển khai tích cực, với nhiều lực lượng tham gia, trong đó nòng cốt là cán bộ, hội viên, đoàn viên của các đoàn thể cứu quốc; với nhiều hình thức truyên truyền, vận động phong phú và sáng tạo. Công tác binh địch vận góp phần làm tan rã hầu hết khối quân ngụy tập kết ở Hải Phòng, Kiến An. Để làm thất bại âm mưu lừa bị, lôi kéo đồng bào Công giáo vào Nam, Thành ủy Hải Phòng, Tỉnh ủy Kiến An chỉ đạo huy động LLVT, cán bộ các đoàn thể phân tán về các làng Công giáo để tuyên truyền, vận động giáo dân. Tháng 9/1955, có 335 gia đình bỏ trại, tháng 10/1955 có 1.200 gia đình bỏ trại di cư, ở lại sinh sống làm ăn.
Giải phóng Hải Phòng ngày 13/5/1955:
Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 16/1/1951, Đại đoàn 320 (nay gọi là sư đoàn) được thành lập tại Mống Lá, NhoQuan, Ninh Bình. Đại đoàn 320 - Đại đoàn đồng bằng, một trong những đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm Bí thư Đảng ủy, Chính ủy, kiêm Tư lệnh Đại đoàn, đồng chí Vũ Oanh, Phó Chính ủy Đại đoàn.
Từ ngày thành lập đến tháng 7/1954, Đại đoàn đã lập nhiều chiến công oanh liệt vùng sau lưng quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ, góp phần chi viện trực tiếp cho nhiều chiến dịch lớn trên chiến trường miền Bắc. Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Đại đoàn vinh dự được Trung ương Đảng, Chính phủ, Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ cùng với Đảng bộ, Chính quyền, nhân dân và LLVT thành phố vào tiếp quản Hải Phòng. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, cuối năm 1954, Đại đoàn đã hành quân về tập kết tại Ninh Giang, Tứ Kỳ (Hải Dương) và Đông Triều (Quảng Ninh) hình thành vòng cung Bắc - Nam áp sát thành phố Hải Phòng làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh với địch khu vực 300 ngày; tiến hành mọi công tác chuẩn bị vào giải phóng Hải Phòng.
Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giải phóng Hải Phòng, Đại đoàn được tăng cường Trung đoàn 42 (Trung đoàn Trung dũng) thuộc khu Tả Ngạn. Trung đoàn 42 với nhiều cán bộ, chiến sỹ là những người con sinh ra từ thành phố Cảng háo hức mong chờ ngày vào giải phóng thành phố quê hương. Lực lượng vào giải phóng Hải Phòng gồm: Đại đoàn 320, Trung đoàn 42, các đơn vị pháo binh của Bộ tăng cường và lực lượng bộ đội địa phương tại chỗ, dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Hoàng Sâm - Đại đoàn trưởng và đồng chí Phạm Ngọc Hồ, Chính ủy Đại đoàn.
Mọi công tác chuẩn bị tiếp quản thành phố Hải Phòng đã hoàn tất. Ngày 10/5/1955, Trung đoàn 52 thuộc Đại đoàn 320 cùng với Tiểu đoàn 204 bộ đội địa phương tỉnh Kiến An và tiếp quản thị xã Kiến An. Ngày 12/5/1955, Trung đoàn 42 chiếm lĩnh khoảnh 6: toàn bộ huyện An Dương.
Sáng sớm ngày 13/5/1955, các cánh quân thuộc Đại đoàn 320 và Trung đoàn 42 đội ngũ chỉnh tề vượt qua các cửa ô tiến về giải phóng thành phố trong niềm vui hân hoan khôn xiết của toàn thể nhân dân. Trung đoàn 48, Đại đoàn 320 theo đường 10 qua cầu Rào, cầu Niệm vào thành phố. Trung đoàn 42 theo đường 5 qua cửa Tây Bắc vào tiếp quản khu vực nội thành, triển khai chiếm lĩnh khu vực và các vị trí, nhiệm sở được phân công: Tiểu đoàn 664 phụ trách khu Máy Tơ, Cá Hộp; Tiểu đoàn 234 chiếm lĩnh khu Nhà ga, Nhà băng 5 Sao, ngã 6; Tiểu đoàn 652 tiếp quản Cảng, Xưởng đóng tàu Ca-rích, từ khu Máy Chai đến sông Cấm; Trung đoàn bộ vào khu Hải quân, Nhà máy Ô-xigen Chùa đỏ...
Lúc 16 giờ ngày 13/5/1955, Trung đoàn 42 vinh dự thay mặt cho LLVT nhân dân của cả nước chiếm lĩnh vị trí cuối cùng của Quân đội viễn chinh Pháp từ vĩ tuyến 17 trở lên, thay mặt cho Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Hải Phòng kéo lá Cờ đỏ sao vàng khẳng định chủ quyền của Tổ quốc. Cũng trong giờ phút thiêng liêng này, cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 42 chứng kiến những tên lính Pháp cuối cùng xuống tàu Đi-rin Boóc-đô tại bến Nghiêng (nay thuộc quận Đồ Sơn) để rút khỏi Hải Phòng.
Ngày 13/5/1955 - miền Bắc sạch bóng quân thù. Ngày 13/5/1955- Ngày lịch sử hào hùng của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và LLVT thành phố Hải Phòng. Ngày 13/5 là mốc son để quân và dân thành phố kế thừa, liên tục chiến đấu, xây dựng, phát triển, có những đóng góp xứng đáng cùng toàn Đảng, quân và dân cả nước tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên Báo Nhân Dân số ra ngày 14/5/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết về ngày tiếp quản thành phố Hải Phòng: Trên Báo Nhân Dân số ra ngày 14 tháng 5 năm 1955, đã đăng bài “Thư gửi đồng bào Hải Phòng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Do nhân dân ta đoàn kết, nhất trí, kháng chiến anh dũng, mà chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình đã thắng lợi. Nước Pháp đã phải công nhận nước ta độc lập và thống nhất. Những vùng quân đội Pháp chiếm đóng trước đây đã lần lược được giải phóng. Sau 8 năm chiến đấu, đồng bào Hải Phòng lại được sống tự do”.
Ngày 2 tháng 6 năm 1955, chỉ sau ngày Hải Phòng giải phóng có 20 ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thành phố Hải Phòng lần thứ 2. Trong bài nói chuyện với đại biểu dân chính đảng Hải Phòng, Bác nêu rõ: “Trong 10 năm qua, nước ta có nhiều chuyển biến lớn, mà chuyển biến lớn nhất là nay miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Hải Phòng hoàn toàn giải phóng”1.
Hải Phòng đi trước: 7 ngày đêm chiến đấu bảo vệ thành phố mở đầu kháng chiến chống quân Pháp tại miền Bắc. Hải Phòng về sau: Đấu tranh với địch khu vực 300 ngày. Ngày 13/5 trước đây, hôm nay và mãi mãi về sau là niềm tự hào, là ký ước không thể nào quên của mỗi người dân Hải Phòng, để Hải Phòng vươn ra biển lớn: “Nhà máy đều khói trắng/Ruộng lúa ba mùa vàng óng/Thuyền lưới đi về trên sóng/Chim thu nhụ đé thơm bát cơm đầy/Cánh hải âu cùng với mây bay/Đưa đón các con tàu vạn tấn” như Nhà văn Nguyên Hồng đã từng mong ước.
Với những chiến công vang dội trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và ngày nay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ, Chính quyền, Nhân dân và Lực lượng vũ trang Hải Phòng xây đắp nên truyền thống “Trung dũng – Quyết thắng”, được Đảng, Nhà nước tặng thưởng cao quý “Thành phố Anh hùng”.
1 Dẫn theo Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9 1954-1955, NXB Sự Thật.
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn