Lược sử phường Dư Hàng Kênh- quận Lê Chân

Thứ bảy - 09/12/2023 00:31
Từ trước công nguyên, vùng đất phường Dư Hàng Kênh là hệ thống cồn cát, bãi đầm lầy dọc ven biển năn lác hoang vu, chỉ có người thập phương lưu lạc tá túc làm nghề đánh cá và hái lượm sản vật tự nhiên
A/ Quá trình hình thành
Từ trước công nguyên, vùng đất phường Dư Hàng Kênh là hệ thống cồn cát, bãi đầm lầy dọc ven biển năn lác hoang vu, chỉ có người thập phương lưu lạc tá túc làm nghề đánh cá và hái lượm sản vật tự nhiên. Riêng dẻo đất Dư Hàng Kênh khi ấy là vị trí cao nhất của cả vùng, chưa có dân cư sinh sống. Vào thế kỷ thứ X, vùng đầm bãi này mới đủ độ cứng để hình thành đất ở.
00

Năm 938, Ngô Quyền từ Thanh Hóa kéo quân ra ven sông Cấm, sông Lạch Tray, lập đại bản doanh ở Lương Sâm và đóng quân khắp vùng đón đánh quân Nam Hán. Vùng đất Dư Hàng Kênh ngày nay là một trong những địa điểm đó. Sau chiến thắng Bạch Đằng một số binh lính ở lại khai khẩn đất đai lập nghiệp, dân cư khắp nơi tụ dần về đông đúc. Khoảng năm Ất Hợi 1215 cuối triều Lý đến năm Mậu Thân 1248 đầu triều Trần, hình thành trang ấp lấy tên là trang Kênh Dương, huyện Nghi Dương, tỉnh Hải Dương, tục gọi là tỉnh Đông.
Đến thời nhà Minh đô hộ (khoảng năm 1407-1427), dân làng phiêu tán khắp nơi, đồng ruộng bỏ hoang, cửi canh dẹp bỏ. Năm 1427 có cụ Nguyễn Khâm về thôn Đoài tái lập trang Kênh Dương và được đổi tên thành làng Hàng Kênh, có nghĩa là thuyền bơi trên kênh lạch, tên làng chỉ ra vùng đất Hàng Kênh có nhiều mương lạch, dân cư đi làm đồng và thu hoạch về bằng thuyền bè.
 Vùng đất làng cổ Hàng Kênh nay được chia thành 10 phường: 8 phường thuộc quận Lê Chân và 2 phường thuộc quận Ngô Quyền .
      Năm Quang Bảo thứ 4 (Đinh Tỵ 1557), nhân dịp triều đình nhà Mạc ra lệnh sửa địa bạ, chức dịch thôn Đoài, đòi tách khỏi Hàng Kênh. Kiện tụng kéo dài, kể cả xô xát, cuối cùng đến khoảng năm 1564 thì làng được chia tách.
Làng Dư Hàng được chia thành hai làng,  là Dư Hàng và Hàng Kênh đều thuộc huyện An Dương (riêng cái tên Dư Hàng cũng nhiều ẩn ý, chức sắc Hàng Kênh cho là làng "thừa" đất, chức sắc. Dư Hàng cho là vùng dư giả giầu có thừa ăn). Làng Hàng Kênh khi được chia đình Nhân Thọ, tượng cụ Vũ Chí Thắng, làng Dư Hàng khi được chia chùa Dư Hàng và kiệu Long Cống, còn ngôi Miếu thì sử dụng chung, từ đấy gọi là miếu Hai Xã (dân làng thường gọi là làng Hàng, làng Kênh và miếu Hai Xã).
 Qua nhiều năm thau chua rửa mặn, ngọt hóa đồng ruộng cấy lúa trồng rau, thành nhiều cánh đồng mầu mỡ phì nhiêu như: Đồng Nẻo, Đầm Chung, Đầm Vẻn, Quán Nam, Đồng Kênh trong, Đồng Kênh ngoài, Đầm Hoàng.
Giữa làng có chợ Hàng Kênh (thường gọi là chợ Hàng) được xây dựng từ năm Chính Hoà thứ 22 (1701) bán các loại hạt giống, cây, con giống, gia súc.
Chợ xưa họp một tháng 6 phiên vào ngày 3 và ngày 8 âm lịch. Đến năm 1963, chợ chuyển về Đông Trà, sau lại chuyển về sân kho thôn Quán Sỏi họp chợ phiên vào sáng chủ nhật.
 Ngày nay, chợ Hàng được đánh giá là một khu chợ quê, trong lòng thành phố độc đáo và đặc sắc nhất của vùng đồng bằng Bắc bộ.
B/ Truyền thống phường Dư Hàng Kênh
Trên mảnh đất trang Kênh Dương xưa, tổ tiên ta đã chắt chiu xây dựng lên những công trình đồ sộ như chùa Dư Hàng (Phúc Lâm tự), đình Hàng Kênh (Nhân Thọ đình), đình Dư Hàng (Phúc Thọ đình), chùa Hàng Kênh, chùa Phổ Chiếu (dân làng thường gọi là chùa Hàng), chùa Kênh, đình Hàng, đình Kênh và chùa Chiếu
Cùng với các công trình văn hóa đó, ông cha ta còn xây dựng trong mỗi thôn một quán bằng gỗ lim, lợp ngói, sàn gỗ, mỗi quán có 1-2 cái bia bằng đá, khắc tên những người có công góp tiền của xây dựng quán: Quán Đông (ở phường Đông Hải), Quán Tây (quán Nải), Quán Nam (Khu thảm len Hàng Kênh), Quán Bắc (ở ngõ Văn Minh), Quán Trung (chợ Hàng cũ). 
 


C/ Lịch sử các dòng họ
 1. Họ Vũ
a. Chi Vũ Hữu: Cụ Vũ Chí Thắng là thủy tổ họ Vũ Hữu (xưa kia là họ Vũ Vạn) ở Dư Hàng. Cụ sinh năm 1253, mất năm 1325, thọ 72 tuổi. Lăng mộ cụ và nhà thờ họ Vũ, sau này được di dời về Quán Nải-Dư Hàng.
Khi mất, cụ được dân làng suy tôn là phúc thần, Thành hoàng làng. Năm 1330, dân làng làm đền thờ cụ (sau này là miếu Hai Xã). Năm 1538 dân làng làm tiếp đình Nhân Thọ thờ cụ. Sau năm 1853 cụ được chuyển từ hai Đình Kênh và Đình Hàng về thờ tại Từ Vũ.
b. Chi Vũ Trọng: Họ Vũ Trọng có nguồn gốc ở Tiền Hải, Kiến Xương, tỉnh Thái Bình chuyển về thôn Đoài (Dư Hàng) vào cuối triều Mạc, cụ thủy tổ là Vũ Ba La.
2. Họ Đặng
a. Họ Đặng thôn Đông, Hàng Kênh: Thủy tổ dòng họ là Đặng Ma La (1234-1285), người làng Tốt Động, huyện Chương Mỹ thuộc Hà Đông, Hà Nội ngày nay. Cụ thi đỗ Thám hoa đời Trần cùng khoa thi với cụ Bảng nhãn Lê Văn Hưu (nhà sử học nổi tiếng của nước ta).
 b. Họ Đặng ở Dư Hàng: có cụ Đặng Đức Thi sinh năm 1564, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu năm 1589 và cụ Đặng Như Khuê, khán thủ. Hai cụ là thủy tổ và cao cao tổ họ Đặng ở Dư Hàng.
3. Họ Nguyễn
a. Họ Nguyễn Bá: Ở Dư Hàng có cụ Nguyễn Khâm hiệu Bạch Mao, năm 1427 đến thôn Đoài (Dư Hàng) lập nghiệp, thấy dân tình đói khổ, cụ đã dỡ kho thóc cứu dân. Cụ chiêu mộ dân về làm ăn, tái lập làng Hàng Kênh.  
b. Họ Nguyễn (Kế Đạo) Hàng Kênh có cụ Nguyễn Khắc Kỷ thụy Kế Đạo, ở thôn Nam  , có công cứu đói, khôi phục làng Hàng Kênh nên được tôn là thủy tổ họ Nguyễn Khắc.
c. Họ Nguyễn Hữu: Ở Dư Hàng trước có nhà thờ ở khu Miếu, nay chuyển về Quán Nải.
d. Họ Nguyễn Nhật: Có hai ngành ở khu Quán Sỏi và Đường Thuyết, cụ cao tổ họ là Nguyễn Nhật Bảo gốc ở Thanh Hóa về Hàng Kênh khoảng trên 400 năm, đến nay là 18 đời.
e. Họ Nguyễn Đình: Ở thôn Nam Hàng Kênh. Theo tộc phả của họ thì là , hậu duệ  của Nguyễn Xí
4. Họ Ngô
Họ Ngô có nguồn gốc ở Thanh Hóa là hậu duệ nhiều đời của Ngô Quyền. Khoảng sau năm 1400 ra lập nghiệp tại thôn Nam, xã Hàng Kênh, có cụ tổ là Ngô Kim Húc, năm Hồng Đức thứ IX khoa thi năm Mậu Tuất (1487) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ giữ chức Hồng lô tự khanh Điện tiền Đô ngự sử.
5. Họ Đỗ
Có nguồn gốc từ Hà Tĩnh về Dư Hàng Kênh từ đầu triều Lý, ở thôn Trung. Cụ thủy tổ là Đỗ quý công, tự là Phúc Thiện.
6. Họ Dương
Là hậu duệ nhiều đời của cụ Dương Đình Nghệ có nguồn gốc từ Thanh Hóa ra lập nghiệp. Cụ thủy tổ là Dương quý công, tự Phúc An sống đến 17 đời khoảng gần 400 năm.
 7. Họ Phạm
Tiền nhân của dòng họ là Thái thái cao tổ Phạm Công Ư về thôn Đoài cuối triều Lý. Đến đời vua Lê Vĩnh Thịnh có ông Phạm Hữu Đạo thi đỗ Tiến sĩ đầu khoa.
8. Họ Bùi
Dòng họ theo kết nối được thì về ở Dư Hàng Kênh đến nay khoảng hơn 300 năm, có nhà thờ họ ở Trại Lẻ, được 16 đời.  
       Tiếp theo 8 dòng họ lớn là các dòng họ khác cũng đến mảnh đất Hàng Kênh sinh cơ lập nghiệp.

D/ LỊCH SỬ ĐÌNH DƯ HÀNG
I- Quá trình hình thành
Làng Hàng Kênh xưa (chưa chia tách) đã có đình Nhân Thọ thờ phúc thần Vũ Chí Thắng. Đình khởi dựng vào năm Mậu Tuất 1538 thời nhà Mạc, ban đầu làm bằng tranh tre lợp cỏ gianh ở cánh đồng Hậu, thôn Bắc (nay là khu ngõ 89 Hàng Kênh, sau Thành đội).
  1. Đình Hàng xây dựng lần đầu:
   Năm 1564, làng Hàng Kênh được chia thành hai làng Hàng Kênh và Dư Hàng. Khi ấy làng Hàng Kênh có đình Nhân Thọ ở thôn Bắc, không có Chùa nên đã xây thêm chùa Kênh. Làng Dư Hàng có chùa Hàng (xây dựng từ thời Tiền Lê), không có Đình nên xây thêm đình Hàng. Đình Hàng và chùa Kênh được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, khoảng năm Kỷ Tỵ 1569*.
  Ngôi Miếu cổ ở ranh giới giữa hai làng không chia được nên thỏa thuận là ngôi Miếu thờ chung, từ đó mang tên miếu Hai Xã.
 Năm Tự Đức thứ 6 (1853), Vua Tự Đức sắc phong Đức vương Ngô Quyền là Thành hoàng 17 làng thuộc lục tổng có dấu tích xưa của Ngài, trong đó có Hàng Kênh và Dư Hàng dân làng đã chuyển  cụ Vũ Chí Thắng từ đình Nhân Thọ về thờ ở Từ Vũ.  
Từ năm 1853 đức Thánh Ngô Vương Quyền bắt đầu được thờ ở hai Đình làng Dư Hàng và Đình làng Hàng Kênh.
2- Trùng tu lại đình năm 1827.
Năm 1827 đình làng Dư Hàng xuống cấp, dân làng trùng tu lần thứ nhất theo nguyên bản ngôi đình xây dựng từ năm 1569.
3- Trùng tu lại đình năm 1907
Năm 1907-1908, đình Dư Hàng được quan huyện Tứ Kỳ người họ Dương làng Hàng là Dương Văn Sách chủ trì xây Đình.  Đình Dư Hàng được phỏng theo nguyên mẫu của đình Kênh xây dựng năm 1851-1854. Đình làm lại  chuyển bố cục từ chữ Đinh sang kiểu dáng mang hình chữ Công,  
4- Trùng tu lại đình năm 1992
Đến năm 1986, trải qua thời gian và hai cuộc chiến tranh tàn phá, Đình xuống cấp nghiêm trọng. Thành uỷ Hải Phòng đã có thông báo số 134TB/TU: “Cho phép UBND xã Dư Hàng Kênh được thanh lý đình Dư Hàng để lấy vật liệu về sửa lại đình Hàng Kênh và chùa Dư Hàng. 1986, các già làng  đầu đơn xin giũ lại Đình  . Ngày 6-9-1989 Giám đốc Sở VHTT thành phố Hải Phòng đã ký thông báo số 07/TB-VH “Chấp thuận cho UBND xã Dư Hàng Kênh được tổ chức tu bổ lại di tích .Đình Dư Hàng được dân làng trùng tu năm 1989 đến năm 1992 thì hoàn thành được cấp bằng Công nhận Di tích Lịch sử Văn hoá cấp Quốc gia số 983/QĐ-VHTT ngày 4-8-1992.  
5-Trùng tu lại đình năm 2010
Năm 2008, kiện toàn Ban Quản lý di tích, làm thủ tục lập dự án trùng tu di tích  UBND thành phố  đã phê duyệt dự án tại Quyết định số 1909/QĐ-UB ngày 19-11-2010.   
  Đến năm 2014 thì cơ bản hoàn thành do thiếu kinh phí nên Không làm thủ tục quyết toán được, mãi năm  2021 mới bàn giao.
Tổng hợp diện tích đất đình Dư Hàng quản lý qua các thời kỳ là:
* Năm 1936:                                         9320,0 m2
* Năm 1992 theo quy hoạch:               3780,0 m2.
* Năm 2015 thực đang quản lý:           2450,3m2               
 II- Nghệ thuật kiến trúc
Đình Hàng được mô phỏng như đình Kênh cả về kiểu dáng, kích thước và bài trí hệ thống đồ tế tự. Song về mảng chạm khắc, đã thừa kế nhuần nhuyễn nghệ thuật kiến trúc, mỹ thuật cổ truyền của dân tộc từ cuối đời Lê Trung hưng đến đầu thời Nguyễn nên tinh xảo và đẹp đẽ hơn.  
Tóm lại, các họa tiết trang trí trên kiến trúc của đình Dư Hàng rất phong phú sinh động hài hòa, thể hiện dày đặc ngay hai bên khung cửa đại chính giữa tòa bái đường, cốn nóc, đầu dư, cánh gà xà gian, chuyển tiếp đề tài trang trí trên kiến trúc rất hợp lý mà không khuôn cứng. Cùng với kết cấu bộ khung gỗ đã làm nên giá trị nghệ thuật trang trí triều Nguyễn tiêu biểu của đình Dư Hàng.
III- Di sản quý của Đình
     Đình Dư Hàng hiện còn lưu giữ nhiều tài sản và cổ vật quý hiếm.
1. Pho tượng của Ngô Vương Quyền chế tác khoảng thế kỷ XVI.
2. Một cỗ Kiệu bát cống tương truyền có thừ thời nhà Mạc.
3. Nhiều cuốn thư, đại tự, câu đối cổ thếp bạc phủ vàng ròng có tuổi gần 200 năm.
4. Đặc biệt đình Hàng còn lưu giữ hòm sắc luân lưu của cả tổng Đông Khê :
  Hòm sắc được liệt vào danh sách cổ vật quí giá của đình Dư Hàng (còn các xã chỉ có bản sao).
   5- Bản Đình có nhà bia bên phải sân Đình mới xây năm 1991 còn bốn văn bia nguyên vẹn.
  1. Lê hội đình Dư Hàng ngày xưa
Ngôi Đình cổ mái cong là hồn thiêng của làng quê Việt Nam, nơi Thờ phụng Thành Hoàng và là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Một trong những sinh hoạt dân gian hội tụ dưới mái đình là các lễ hội truyền thống. Trong một năm, có nhiều tuần tiết tế lễ, song lễ hội Thánh hóa là to hơn cả. Mỗi năm cứ dịp xung quanh ngày 18 âm lịch, dân làng lại nô nức mở lễ hội, song đặc sắc và độc đáo hơn cả là lễ hội Ky Phước. Đây là lễ hội 5 năm diễn ra một lần  khi đến phiên rước sắc luân lưu hàng tổng từ xã bạn về thờ (một trong các xã đang được thờ sắc luân lưu năm trước). Lễ hội năm này có quy mô hàng Tổng. Tuy là lễ hội của một làng ( ví dụ làng Dư Hàng), song 4 xã khác cùng thờ Đức Ngô Vương đều diễn ra lễ hội đồng thời phải góp công của và cử đoàn tế khênh kiệu Long Đình đến đình Dư Hàng để hợp rước. 
b. Lễ hội truyền thống đình Dư Hàng ngày nay
Từ năm 1992 sau khi dân làng phục dựng lại Đình Dư Hàng như xưa, ban tu tạo Đình đã khôi phục vốn cổ, “xuân tự thu thường” đều tổ chức các lễ tiết như trước. Đặc biệt bản Đình đã thành lập các đội tế nam quan,  đội tế nữ quan. Song song với việc phục dựng lại đình, Ban Quản lý đình cùng dân làng đã khôi phục các hoạt động tín ngưỡng và phong tục truyền thống tốt đẹp cổ xưa đang dần mai một.
 Trong các năm Phong đăng hòa cốc dân làng tổ chức rước Thánh quanh làng.
Ngày nay khôi phục lệ cổ, những năm lễ trọng Đảng ủy UBND phường cùng ban quản lý Đình mở lễ hội có rước thánh trong địa bàn phường từ UBND phường về Đình.
Trình tự như sau ;
 1. Đoàn múa Lân Rồng đi trước múa biểu diễn và dẹp đường: Võ đường bố trí lực lượng và trang bị. (khoảng 30 người).
2. Đoàn rước cờ: 01 lá Quốc kỳ, cờ thần 14 lá: Phường bố trí các thanh niên nữ mặc áo dài truyền thống: (Tổng15 người).
3.  Đoàn trống đai , chiêng  đại (Trên xe cơ giới) Phường bố trí 04 người đứng hai bên, mặc áo nậu, Đình bố trí 02 người (ông Thiêm bố trí), đánh chiêng, trống mặc áo lễ (Tổng 06 người). 
4-Chấp kích: 12 nam mặc áo nậu (phường bố trí nhân lực).
5- Nhạc công (Bát ân) 08 người trang phục truyền thống. (Cô Sinh và anh Duẩn bố trí).
6- . Xinh tiền: 10-20 người mặc lễ phục (Cô Ngọc bố trí)
7-. Bát biểu: 02 bộ gồm 20 nam mặc áo nậu (phường bố trí nhân lực)
8. Kiệu Long đình: 08 nam mặc áo nậu khênh; 04 nữ mặc áo dài cầm dải lụa: Tổng 12 người (phường bố trí nhân lực).
 9-. Lọng che: 02 người mặc áo nậu (phường bố trí nhân lực).
10-.Tàn che: 02 người mặc áo nậu (phường bố trí nhân lực).
11. Quạt: 02 người mặc áo nậu (phường bố trí nhân lực).
12. Long đao, hộ giá: 02 người mặc áo nậu (phường bố trí nhân lực).
13. Kiệu bát cống: Từ 24-32  người mặc áo nậu thay nhau khênh.
14. Kiệu võng: 12 thanh niên nữ mặc áo dài trắng (08 người khênh, 04 người rước dải lụa).
15. Đội tế nam: 16 người mặc áo tế.
16. Đội tế nữ: 16 người mặc áo tế.
17. Đoàn dâng lễ: Đại diện các dòng họ; cán bộ tổ dân phố và nhân dân, khách thập phương…đội lễ và đi theo đoàn rước.
Lễ hội diễn ra trong ba ngày:
 Gồm phần lễ gồm tế lễ dâng hương.
Phần hội, sau khi rước về Đình có các hoạt động múa lân, múa Rồng, biểu diễn trống hội. các hoạt động văn võ, thi thư pháp, đấu vật và các trò chơi dân gian như chọi gà, thi nấu cỗ, kéo co, nhảy bao, bịt mắt đập niêu…Hoạt động chợ quê độc đáo…
Đình Dư Hàng Kênh là một trong vài ngôi đình to đẹp nhất của thành phố. Là ngôi đình cổ do dân làng tự khôi phục, nhà nước đầu tư, thuộc địa bàn làng xã cổ, được chính quyền địa phương giao dân làng tự quản chỉ bằng tâm đức tự nguyện thờ phụng Thánh làng không có thù lao nên đã phát huy đựợc nhiều nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Được Đảng ủy, UBND phương hết sức quan tâm nên Đình Dư Hàng ngày nay càng rực rỡ khang trang tố hảo, xứng đáng là một địa điểm tâm linh trong trục di tích lịch sử Chùa Hàng, Đình Dư Hàng, Chùa Chiếu…, là những giá trị tâm linh đặc sắc của thành phố Hải Phòng.

                                        Tác giả: Dương Anh Dũng
                                             (CLB Hải Phòng học)

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây