Dấu ấn linh thiêng của tổ đệ nhất Trúc Lâm

Thứ hai - 08/07/2024 23:03
Cách đây 715 năm ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Thân niên hiệu Hưng Long thứ 16, đức vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn tại Am Ngọa Vân, tren non thiêng yên tử, thọ 51 tuổi. Ngài là vị vua thứ 3 của triều Trần ( 1225 – 1400)

Hòa thượng Thích Thanh Giác

Phó trưởng Ban Thường trực

Giáo hội Phật giáo Việt nam – TP. Hải Phòng

- Cách đây 715 năm ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Thân niên hiệu Hưng Long thứ 16, đức vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn tại Am Ngọa Vân, tren non thiêng yên tử, thọ 51 tuổi. Ngài là vị vua thứ 3 của triều Trần ( 1225 – 1400) đầy hiển hách. Trong suốt 15 năm trị vì đất nước ( 1278 – 1293). Hoàng đế Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt hai lần đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên. Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần ( 1278) Ngài lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thiệu Bảo ( 1279 – 1284). Trùng hưng ( 1285 – 1293). Năm 1293 Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lui về phủ Thiên Trường ( Nam Định) làm Thái Thượng Hoàng, nhưng Ngài vẫn chỉ đạo và giám sát nhà vua. Vốn sùng kính Đạo Phật từ nhỏ. Năm 1295 Ngài đã đến chùa Vũ Lâm, huyện Yên Khánh, trấn Trường Yên ( nay thuộc thôn Vũ Lâm, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) tập sự xuất gia(1). Đến tháng 10 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hưng Long thứ 7 (1299) năm 41 tuổi, Ngài chính thức xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, được Quốc sư Huệ Tuệ thọ giới lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu Đà. Ngài được nhận là người truyền thừa chính thức của thiền phái Yên Tử thuộc thế hệ thứ 6 sau thiền sư Huệ Tuệ. Việc xuất gia lần này của Trần Nhân Tông đã tạo nên một sự chấn động lớn, một sự bàng hoàng trong dân chúng, bởi đây là hiện tượng có một không hai, không chỉ trong lịch sử Phật giáo Việt Nam mà cả trong lịch sử dân tộc và thế giới. Tiếp đó Ngài đã thu nhận Đồng Kiên Cương ( Pháp Loa) và Huyền Quang ... làm đệ tử. Trước khi viên tịch, ngài truyền y bát cho Pháp Loa làm Đệ Nhị Tổ. Pháp Loa truyền y bát cho Huyền Quang thuộc thế hệ thứ 3. Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang được hậu thế tôn vinh là “ Trúc Lâm Tam Tổ”. Do uy tín, đức độ, trí tuệ siêu việt của Điều Ngự Giác Hoàng Trúc Lâm đệ nhất Tổ mà Thiền phái Trúc Lâm đã quy tụ được các tông phái Phậ Giáo Đại Việt thời bấy giờ thành một tổ chức Phật Giáo thống nhất.

- Sự nghiệp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông đối với dân tộc nổi trội trên ba lĩnh vực: dựng nước, giữ nước và mở nước. Trên cả ba lĩnh vực, Ngài đã có những đóng góp hết sức đặc biệt. Trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới một người như Phật Hoàng Trần Nhân Tông hiếm thấy xuất hiện. Dưới sự lãnh đạo tối cao của Ngài, dân tộc ta đã giành được thắng lợi trọn vẹn trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc ( 1285 và 1287 – 1288) giữ vững nền tự chủ đất nước trước tham vọng xâm lăng của đế chế Nguyễn Mông, một đế chế hung hãn nhất thời đại hầu như chưa chùn bước trước bất cứ một đối thủ nào ở cả hai lục địa Á – Âu. Đơn cử như trên đất Hải Phòng; khi Ngài còn làm tổng chỉ huy đích thân xông pha trận mạc chông giặc Nguyên Mông xâm lược, Ngài và quân đội nhà Trần đã nhiều lần nhận được sự giúp đỡ, che chở của nhân dân và Tăng Ny Phật tử vùng rừng núi non hiểm trở miền Đông Bắc và vùng cửa biển sông Bạch Đằng. Giữa lúc nguy khốn nhất bị giặc bao vây, truy đuổi gắt gao; vua Trần Nhân Tông và Thái Thượng Hoàng đã được Trần Lại người làng Hữu Triều Môn ( Thủy Nguyên) dâng cơm gạo xấu, dân làng Thủy Chú ( Thủy Nguyên), Chân Kim ( Dương Kinh) cử người bí mất đưa Ngài và Thượng Hoàng vượt vòng vâu vào Thanh Hóa chuẩn bị cuộc phản công chiến lược. Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và bộ phận tham mưu chiến dịch Bạch Đằng năm 1288 được các sư trụ trì chùa Đỏ ( Linh Độ). Chùa Vẽ ( Linh Hoa Tự) ở làng Đoạn Xá giúp đỡ việc quân lương. Chùa Thiểm Khê ( Liên Khê – Thủy Nguyên) là nơi Trần Hưng Đạo luyện tập quân sý chuẩn bị cho trận đánh Trúc Động năm 1288. Chùa Mai Động( Liên Khê – Thủy Nguyên) là nơi quân đội trong chiều đình xây dựng kho lương phục vụ chiến dịch Bạch Đằng năm 1288. Đặc biệt là các làng xã phía Nam huyện Thái Thụy, tức cung điện dã ngoại ( gọi là Cung Trần Vương) của vua Trần Nhân Tông ở vùng hạ lưu sông Hóa đối ngạn với huyện Vĩnh Bảo.

- Đề cập tới động cơ tu hành của Điều Ngự Giác Hoàng đệ nhất Tổ Trúc Lâm, không thể không nhắc đến vai trò ảnh hưởng to lớn của Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung đạo hiệu Tuệ Trung Thượng Sỹ. Sách Tam Tổ Thực lục chép rằng: “ Nhân Tông tham khảo những yếu chỉ của Tuệ Trung Thượng Sỹ, thu lượm được nhiều tinh hoa của Đạo Thiền, nên vẫn thờ Tuệ Trung làm thầy”. Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Quốc Tung là con cả của An Sinh Vương Trần Liễu, mẹ là Thiên Đạo phu nhân Lý Thị Nguyệt. Ngài là anh cả của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu ( mẹ của Trần Nhân Tông). Trần Quốc Tung là bậc danh thần lỗi lạc. Ngài đã nhiều lần làm sứ giả đến trại giặc để nghị hòa và thám thính ở Tổng hành dinh Thoát Hoan. Thực hiện kế sách giữ nước, nhà Trần chủ động “ Toàn dân duy binh, tông tử duy thành” ( Toàn dân làm lính, các thân vương cùng lo bảo vệ vương triều) và một trong chính sách kinh tế đưuọc nhà trần áp dụng là pháp cấp thái ấp cho các vương hầu quý tộc và những người có công để làm phên rậu bảo vệ chính quyền. Vốn là người có nhiều công lao trong sự nghiệp chống đế quốc Nguyên Mông ( từng được cử làm Phó tổng tư lệnh cánh quân Phía Đông do Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng Đạo đảm trách), nên sau khi khải hoàn, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung đã được vua Trần giao trấn thủ miền biên ải Thái Bình ( vùng Hải Dương và Hải Phòng ngày nay). Trước đó Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung được ban thái ấp ở Vạn Niên, hiện chưa xác định được địa điểm cụ thể. Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, có lễ ấp Vạn Niên gần ấp Vạn Kiếp của Trần Hưng Đạo. Ở vùng Dưỡng Chính xã Chính Mỹ huyện Thủy Nguyên, các nhà sử học thấy dấu vết tịnh thất Dưỡng Chân của tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Quốc Tung. Các bậc cao niên địa phương giải thích về tên làng Dưỡng Chân vốn được bắt nguồn từ sự kiện đạo quân của nhà Trần, trong một lần hối hả hành quân ra vùng cửa biển để xây dựng thế trận Bạc Đằng năm 1288 đã dừng chân nghỉ đêm tại đây. Tịnh thất này nằm trên địa bàn ấp Thang Mộc, An Sinh, An Phụ, An Dưỡng, An Bang của An Sinh Vương Trần Liễu được cấp sau vụ ông gây bạo loạn “ Sông Cái” cuối năm 1236. Tương truyền có lúc hai đức vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã họp bàn kế sách chống giặc với các thân vương, cũng như tham vấn ý kiến của Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung tại tịnh thất này. Do có nhiều công lao lớn, nên Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung được vua Trần ban cho đất đai thực ấp ở làng Dưỡng Chân ( sau đổi thành Dưỡng Chính) ở huyện Thủy Đường, nay là xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vẫn còn vết tích tịnh thất Dưỡng Chân của Tuệ Trung Thượng Sỹ.

- Ảnh hưởng của Thiền phái Trúc Lâm bắt nguồn từ mối quan hệ thân tộc giữa Tuệ Trung Thượng Sỹ với đức vua Trần Nhân Tông. Tuệ Trung Thượng Sỹ đã từng được vua Trần Thánh Tông kính trọng gọi bằng sư huynh và ký thác Trần Nhân Tông cho Ngài dạy dỗ. Như chúng ta đã biết Trần Nhân Tông tìm đến Đạo Phật không chỉ với mục đích “ Độ” cho mình thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, mà còn tìm những điều giải đáp cho hàng loạt câu hỏi lớn: Con người ta là ai? Thế giới này có hay không? Thật hay ảo? Vấn đề sinh tử? Sắc không? Việc xuất gia tu hành của Ngài không chỉ đơn thuần giải thoát cho cá nhân mà cả dân tộc. ngài chủ trương rằng: “ Thông qua giáo lý của Đạo Phật để nuôi tâm đạo đức, dạy trí làm người, bồi đắp tinh thần độc lập tự cường, phát huy sự hòa thuận trong nhân tâm trăm họ, tạo ra sự hòa hợp quốc gia, hòa hợp vua tôi, hòa hợp cha con, hòa hợp vợ chồng, hòa hợp gia đình xã hội tạo cội rễ sức mạnh lâu bền cho quốc gia Đại Việt”. Chính từ động lực ấy đã thôi thúc Ngài thực hiện thành công rực rỡ sự nghiệp hoằng pháp độ sinh. Đó chính là tư tưởng chủ đạo vĩ đại nhất trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của Ngài.

- Được kế thừa những tinh hoa tư tưởng thiền học của Tuệ trung Thượng Sỹ với hai vấn đề cơ bản “ Phật tức tâm” và “ Lý không” đưuọc cô đọng khúc triết trong Cư Trần Lạc Đạo phú(1) bằng chữ Nôm của Ngài.

Bụt ở trong nhà

Chẳng phải tìm xa

Nhân khuấy bổn(2)

Ta nên tìm Phật

( Hội thứ 5 – Cư Trần Lạc Đạo phú)

Hay:

Ở đời vui đạo hay tùy duyên

Đói đến thì ăn mệt ngủ liền

Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

( Bài kệ Hội thứ 10 – Cư Trần Lạc Đạo phú)

Và trong bài kệ trả lời Pháp Loa:

Hữu cú vô cú

Đằng khô thụ đảo,

Kỷ cá nạp tăng,

Chàng cầu ký não.

Tạm dịch:

Có câu không câu

Mây khô cây đổ

Mấy thầy chùa đốt

Đập đầu đập óc v.v..(1)

Ngài thể hiện rõ ràng lập trường “ Lý bất nhị” đạp tan thuyết Lưỡng nguyên “ Có có – không không” gạt bỏ thuyết đối lập giữa Niết Bàn và sinh tử, chúng sinh và Phật. theo Ngài “ Có có – không không” mà cũng chẳng không, chẳng có. Vì các mặt của sự vật quyện chặt vào nhau như dây bìm bìm quấn vào cây.

Thử hữu cố bỉ hữu

Thử vô cố bỉ vô.

Thử sinh cố bỉ sinh

Thử diệt cố bỉ diệt.

Tạm dịch:

Cái này có thì cái kia có

Cái này không thì cái kia không

Cái này sinh thì cái kia sinh

Cái này diệt thì cái kia diệt.

Với cái nhìn phóng khoáng, không bị ràng buộc câu thúc về đạo hay đời. Đạo và đời tuy hai mà một, hòa quyện vào nhau như nước với sữa. Đó là tư tưởng “ Tùy tục”, “ Hòa quang đồng trần”, cũng là kim chỉ nam xuyên suốt cuộc đời hành đạo của Ngài và để lại cho muôn đời sau. Trúc Lâm cũng như Trần Thái Tông rất ý thức về tính cách vô thường của cuộc sống và thao thức thực hiện sự giải thoát,đạt đạo. Ngài đã tận dụng thời gian trong mọi hành động, cử chỉ nhỏ nhặt để tham quán thiền đạo, không để cho nó trôi qua một cách vô ích, qua bài kệ:

Thân như hơi thở qua buồng phổi

Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa

Chim quyên kêu rõ bao ngày tháng

Đâu phải mùa xuân dễ luông qua(1).

Về sự nghiệp hoằng pháp của Ngài. Sử liệu có ghi: năm 1340 Ngài chủ trương mở rộng công cuộc giáo hóa, băng việc “ Vân du” khắp nơi, đến tận những vùng quê xa xôi hẻo lánh, để vận động nhân dân xóa bỏ dâm từ ( những nơi thờ tự những thần lõa thể và sinh thực khí), dạy cho dân biết sống và thực hành giáo lý “ Thập thiện” ( Không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói rối, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không nói ác khẩu, không tham dục, không sân khuể, không tà kiến). Thủ pháp giáo hóa của Ngài tuy thật đơn giản, nhưng lại trúng với tâm Phật và lòng dân. Bởi cội gốc khổ đau hay an lạc của con người đều bắt nguồn từ ba nghiệp thân khẩu ý.

Tự mình điều ác làm

Tự mình làm nhiễm ô

Tự mình ác không làm

Tự mình làm thanh tịnh

Không ai thanh tịnh ai.

( Kinh Pháp Cú – Phẩm tự ngã thứ 12)

“ Giáo lý nhập thế căn bản của Đạo phật, đặt trên nền tảng ba nghiệp: Thân – Khẩu – Ý của con người. Từ ba nghiệp tạo lên một mẫu người đạo đức lý tưởng và hài hòa, những con người ấy sẽ tạo thành một xã hội tốt đẹp, xóa bỏ những tê nạn tràn lan. Việc làm của ông phản ánh nguyện vọng của dòng thiền Trúc Lâm muốn xây dựng một xã hội trên nền tàng luân lý Phật giáo. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, nhà vua và hoàng tộc đều là Phật tử tại gia và xuất gia, và các dòng phái Phật giáo bấy giờ hội tụ thống nhất trong dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Sự kiện này là đỉnh cao của Phật giáo thời Trần. Do vậy vua Trần Nhân Tông còn được suy tôn là Điều Ngự Giác Hoàng”(2).

Nhận định về sự nghiệp hoằng pháp của Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông nhà sử học nổi tiếng Lê Mạnh Thát đã nhận xét: “ Việc Thượng Hoàng Trần Nhân Tông đem 10 điều thiện để dạy dân chúng, rõ ràng phản ánh quan điểm chính trị của Phật giáo Việt Nam, mà trước đó hơn ngàn năm đã được ghi vào trong Kinh Lục Độ tập. Bản kinh này có thể nói là một bài kinh xưa nhất của Phật giáo nước ta hiện biết, đã tập hợp nhuần nhuyễn và thành công tư tưởng Phật giáo và truyền thống dân tộc. nó liên tục kêu gọi những người lãnh đạo chính trị phải dùng 10 điều thiện để làm “ Pháp luật quốc gia” ( Quốc pháp) làm “ Chính sách quốc gia” ( Quốc chính) và đây cũng là lần đầu tiên ta thấy Thượng Hoàng Trần Nhân tông đã thực hiện lời kêu gọi này”(1)

- Bài pháp vi diệu này cũng là bức thông điệp tâm linh đã lan tỏa khắp đất Việt, đặc biệt là xứ Đoài xứ Đông, trong đó có Hải Phòng. Tiêu biểu như chùa Phúc Lâm ( Dư Hàng), chùa Nguyệt Quang ( Đông Khê), chùa Hàm Long, chùa Thiên Vũ, chùa Linh Sơn ( Mỹ Cụ), chùa Vẽ ( HoaLinh Tự), chùa Kha Lâm, chùa Vân Bản ... trong đó đáng chú ý là công chúa Thiên thụy chị gái của vua Trần Nhân Tông đã chiêu mộ dân khai hoang đắp đê ngăn nước mặn mở mang nhiều làng xã ở Kiến Thụy và An Lão Hải Phòng ngày nay. Thái trưởng công chúa Thiên Thụy ( Tức công chúa Quỳnh Trân đạo hiệu là Đại uy Thiên Thánh) đã cho dựng ngôi chùa ở trang ấp Nghi Dương ( xã Ngũ Phúc – Kiến Thụy) gọi là chùa Mõ ( Còn gọi là chùa Nghi Dương). Điều Ngự Giác Hoàng đã nhiều lần về vùng đất này hoằng dương Phật pháp và tới chùa Mõ. Tục truyền, trước khi viên tịch vài ngày, Phật Hoàng Trần Nhân tông đã về chùa Mõ thăm chị ốm nặng và sau đó công chúa Thiên Thụy thác hóa trước Ngài một ngày. Một người chị nữa của Ngài là công chúa Chiêu Chinh, cũng bỏ tiền của làm chùa Kha Lâm, đúc chuông, tô tượng, mở chợ bến đò và khai hoang ở vùng đất ven sông Lạch Tray ( quận Kiến An ngày nay). Theo ngọc phả đền Kha Lâm: Bà đã để lại cho dân làng 171 mẫu ruộng. Công chúa Chiêu Hoa con của vua Trần Thánh Tông cùng chồng là thái học sinh Cao Toàn, người làng Phù Liễn (Kiến An) đã dốc lòng giúp dân làng Phù Liễn, làng Tiểu Trà được nhân dân rất sùng kính. Sách Đồng Khánh dư địa chí và Hải Dương toàn hạt dư địa chí, Mục từ miếu huyện Tiên Minh chí chép: “ Trần Nhân Tông sau khi nhường ngôi vua để đi tu ở Yên tử. Một hôm từ Thiên Trường qua Diên Lão ( nay thuộc xã Tiên Minh huyện Tiên Lãng) gặp phụ lão cung kính đón rước. Nhân Tông rất bằng lòng. Cho là dân nơi đấy biết lễ ban cho tên là “ Diên Lão”, lại dặn sau này trên mặt sông có vật lạ thì rước về thờ sẽ được che chở. Khi Nhân Tông nằm trên phiến đá thác hóa, phụ lão Diên Lão thấy có phiến đá trôi ngược dòng sông, nhớ lời dặn bèn rước về lập đền thờ gọi là Trần Nhân Tông Từ ( Tức đền thờ Trần Nhân Tông) rất linh ứng, hòn đá này vẫn còn ở trong đền”. Đặc biệt nữa là câu chuyện Bến đò Sáu khi Ngài đi kinh hành từ Vĩnh Lại, qua đò sang làng Mõ, Nghi Dương, phủ Kinh Môn thăm chị là công chúa Quỳnh Trân do không có tiền mãi lộ bị quan lại địa phương tặng cho 60 thụi, nhưng ngài vẫn từ bi hỷ xả vô ngã vị tha không bắt tội. Đó là những dấu ấn lịch sử vàng son vô cùng thiêng liêng của Đức vua Phật Hoàng Trần Nhân tông trên đất Hải Phòng.

- Tóm lại: Đức vua Phật Hoàng Trần Nhận Tông là 1 vị vua anh hùng, là vua Phật của Việt Nam. Một con người nhân hậu, một thiền sư uyên bác năng động. Nói cho đủ hơn, con người Đức vua Trần Nhân tông là 1 tổng hợp uyển chuyển của các phẩm bậc “ Trí Sỹ”; tư tưởng của Ngài thể hiện tính nhất quán giữa đạo và đời, xuất thế và nhập thế không ngăn ngại. “ Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác ...”. Tư tưởng ấy thuộc về Phật Giáo Đại Thừa, mà các Đại Sỹ Bồ Tát đã thể hiện trong các kinh: Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn, Địa Tạng v.v.” với chủ trương “ Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh”.

- tư tưởng của Đức vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông không chỉ dừng ở thành tựu thế tục “ Dĩ nhân tâm vi kỷ tâm” để đạt cho được mục đích tối hậu “ Non sông muôn thủa vững âu vàng”, mà nó còn vươn tới tầm cao hơn, xa hơn, siêu việt hơn. Đó là thủ pháp sử dụng giáo lý Đạo Phật để tịnh hóa con người và xã hội. Cụ thể là đề cao sự tự ngộ, sự nỗ lực rèn luyện của tất cả mọi người. Dừ xuất gia hay tại gia, sống trong chùa hay ngoài đời, miễn là biết tu tập, cải tạo tâm từ ác chuyển thành thiện, từ xao động chuyển thành bình lặng, định tĩnh biết phá trừ vô minh, tham dục thì đều đi đến con đường giác ngộ. Đức vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã đi khắp các chốn thôn dã, khuyên dân bỏ những hủ tục mê tín, thực hành giáo lý Thập thiện, nhằm xây dựng một mẫu người tốt, gia đình tốt, xã hội tốt, đất nước tốt, tràn đầy an vui, hạnh phúc. Tư tưởng ấy đã lan tòa toàn cõi Việt, trong đó có Hải Phòng ngày nya được thừa hưởng những tinh hoa giá trị ấy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Thơ văn Lý Trần tập II, NXB KHXH. 1983

- Việt Nam Phật giáo sử luận tập 1 – Nguyễn Lang. NXB Văn học in lần thứ 3 năm 1992, Hà Nội.

- Việt Nam Phật giáo sử lược – NXB Tôn giáo – 2004.

- Lược sử Phật giáo Việt Nam – Thích Minh Tuệ - Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh – 1993.

- Trần Nhân Tông cuộc đời và sự nghiệp – PGS – TS. Lê Cung – NXB Thuận Hóa – 2010.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây