VẤN ĐỀ “ĐỒNG BỆNH DỊ TRỊ” TRONG BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP GIỮA 2 NỀN Y HỌC

Thứ năm - 02/05/2024 04:46
Đối với nền Y học cổ truyền, khi điều trị bệnh bằng thuốc, châm cứu,…, nguyên lý “đồng bệnh dị trị” đã, đang và sẽ luôn được các thầy thuốc thực hành thường xuyên, liên tục một cách rất sáng tỏ. Vậy nay, trong xu thế hiện đại, khoa học hóa nền Y học cổ truyền và kết hợp chặt chẽ Y học cổ truyền với Y học hiện đại ngày càng tăng, nét cơ bản thể hiện nguyên lý đógiữa hai nền y học cũng có thể được và phải giải trình theo một vài ví dụ cụ thể, để từ đó, chúng ta có cách nhìn suy luận, toàn diện mà logic nhất.
1. MỘT SỐ BÀN LUẬN CHÍNH
1.1. Đối với nền Y học cổ truyền, khi điều trị bệnh bằng thuốc, châm cứu,…, nguyên lý “đồng bệnh dị trị” đã, đang và sẽ luôn được các thầy thuốc thực hành thường xuyên, liên tục một cách rất sáng tỏ. Vậy nay, trong xu thế hiện đại, khoa học hóa nền Y học cổ truyền và kết hợp chặt chẽ Y học cổ truyền với Y học hiện đại ngày càng tăng, nét cơ bản thể hiện nguyên lý đó giữa hai nền y học cũng có thể được và phải giải trình theo một vài ví dụ cụ thể, để từ đó, chúng ta có cách nhìn suy luận, toàn diện mà logic nhất. Lấy ví dụ trong điều trị bệnh Tăng huyết áp của Y học hiện đại. Đây là một bệnh thường được mô tả trong phạm vi của các chứng đầu thống, huyễn vựng, thất miên, hung hiếp thống của Y học cổ truyền. Bệnh có thể gặp với các thể bệnh - hội chứng bệnh bao gồm có huyết áp tăng > 130/80 mHg, mà lại có kiêm thêm các hội chứng, triệu chứng như sau:
1.1.1. Can khí uất nghịch:
1.1.1.1. Chứng trạng của bệnh này thường hiện ra những chứng giữa khoảng ngực và thượng vị khó chịu, mạng sườn đau sưng, đầu mắt choáng váng, đau tức, thở dài, khó ngủ, mạch huyền. Cách chữa chủ yếu và trước hết phải thông can khí, giải uất tán kết. Nếu bệnh mới phát, bệnh thế cấp, có thể dùng châm tả các huyệt Thái xung, Nội quan, và bài Lý khí bình can tán (Ô dược, Hương phụ, Thanh bì, Chỉ xác, Thược dược, Xuyên khung, Sài hồ, Mộc hương, Cam thảo).
1.1.1.2. Nếu bệnh đã lâu ngày, đã dùng sơ can lý khí không có công hiệu, có thể phải châm tả thêm các huyệt A thị, Kỳ môn, và dùng bài Toàn phúc hoa thang (Toàn phúc hoa, Tân giáng, Hành ống gia những vị Đào nhân, Uất kim, Đương quy tu, Trạch lan) để thông hoạt kinh lạc.
1.1.1.3. Nếu lâu ngày không khỏi, tổn thương đến âm huyết, hiện ra những chứng lưỡi đỏ sáng ít rêu, mạch huyền tế sác,…, đó là vì huyết dịch không đủ, can không được nuôi dưỡng mà gây nên, phải dùng châm bổ các huyệt Thái xung, Nội quan, Kỳ môn, và có thể dùng bài Nhất quán tiễn (Sa sâm, Mạch đông, Đương quy thân, Sinh địa hoàng, Câu kỷ tử, Xuyên luyện
tử) để nhuận can dưỡng huyết.
1.1.1.4. Nếu can khí uất ức sinh chứng phiền nhiệt, khát nước, nóng rét, có cơn đau đầu, chóng mặt, hai bên sườn đau, mạch huyền sác,…, thì nên dùng châm tả Thái xung, Kỳ môn, Nội quan, A thị huyệt, và bài Đơn chi tiêu giao tán (Đương quy, Thược dược, Sài hồ, Bạch linh, Bạch truật, Cam thảo, Sinh khương, Bạc hà, Đơn bì, Sơn chi).
1.1.1.5. Nếu khí uất sinh đàm, tức ngực, khí nghịch, đờm tắc giống như có dị vật vướng trong cổ, rêu lưỡi trắng, mạch huyền, dùng cứu tả các huyệt Phong long, Kỳ môn, Đản trung, Thiên đột, và có thể dùng bài Bán hạ hậu phác thang (Bán hạ, Phục linh, Hậu phác, Tô diệp, Sinh khương). Nếu đàm nhiệt, phải dùng châm tả các huyệt trên, và thuốc chủ yếu là các vị thanh hóa nhiệt đàm để chữa.

1.1.2. Chứng huyễn vựng Chủ yếu là chứng trước mắt tối sẫm, đầu thấy xoay chuyển, hốt hoảng, mê choáng. Nhẹ hơn thường nói là đầu váng, mắt hoa – đầu vựng, nhãn hoa. Nguyên nhân gây nên chứng huyễn vựng không ngoài hai thứ nội
thương và ngoại cảm. Ngoại cảm là do tà khí lục dâm xâm lấn vào chỗ các khiếu trống rỗng ở đầu và mắt mà làm ra chứng huyễn vựng. Chữa trị chứng này cần phải nắm chắc đặc tính của từng nguyên nhân mà xử trí cho thích hợp nhất. Do nội thương cũng thường gặp các nguyên nhân chủ yếu như sau:
1.1.2.1. Vì can phong nội động thì hiện ra các chứng đầu váng, mắt hoa, miệng đắng hoặc chua, ngực sườn đầy chướng, khi nóng khi lạnh, lưỡi ít rêu, mạch huyền, thường dùng châm tả các huyệt Bách hội, Thái dương, Nội quan, Thái xung, và thuốc có thể dùng bài Tiêu giao tán (Đương quy, Thược dược, Sài hồ, Bạch truật, Phục linh, Sinh khương, Bạc hà diệp) hợp Thiên ma câu đằng ẩm (Thiên ma, Câu đằng, Sinh thạch quyết minh, Tang ký sinh, Đỗ trọng, Ngưu tất, Sơn chi, Hoàng cầm, Ích mẫu, Phục thần, Dạ giao đằng) để bình can tức phong là chính.
1.1.2.2. Vì đờm thấp tắc trở các thanh khiếu thì có các chứng đầu trướng, choáng váng, lồng ngực đầy tức, cử động nhọc mệt, rêu lưỡi dầy nhờn trắng, mạch hoạt hữu lực, thì nên lợi thấp hóa đàm, phải dùng cứu tả các huyệt Bách hội, Thái dương, Đản trung, Kỳ môn, Phong long, và có thể dùng bài Bán hạ bạch truật thiên ma thang (Bán hạ, Bạch truật, Trần bì, Bạch linh, Thiên ma, Cam thảo, Sinh khương, Đảng sâm, Trạch tả, Hoàng bá, Mạch nha, Thần khúc, Can khương, Cương tàm).
1.1.2.3. Vì âm hư, thận thủy suy kém, hư hỏa bốc lên thì đầu đau, choáng váng, tâm phiền, miệng khát, ngực tức, lưng đau, đạo hãn, lưỡi gày đỏ, ít rêu, táo bón, mạch tế sác, nặng thì gò má đỏ, ho đờm lẫn huyết, phải dùng châm bình bổ bình tả các huyệt Bách hội, Thái dương, Nội quan, cùng châm bổ Thái khê, Tam âm giao, và thường dùng Lục vị sài thược (Thục địa, Sơn thù, Hoài sơn, Trạch tả, Phục linh, Đan bì, Sài hồ, Bạch thược),...
1.1.2.4. Vì mệnh môn hỏa suy kém, chân dương vượt lên trên, sẽ có chứng đầu mặt luôn nóng, choáng váng, đầu đau, muốn ngã, vùng trán hồng đỏ nhuận mà hạ hàn, ăn ít, bụng sôi, tiết tả, mạch phù đại, hai bộ xích nhược. Đó là chứng thuộc thượng nhiệt hạ hàn, phép chữa phải dẫn hỏa quy nguyên, phải cứu bổ các huyệt Thần khuyết, Quan nguyên, Khí hải, Túc tam lý, cùng châm bình bổ bình tả Bách hội, Thái dương, về thuốc có thể dùng Bát vị địa hoàng hoàn (Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù, Trạch tả, Đan bì, Bạch linh, Nhục quế, Phụ tử chế) hoặc Lục vị gia các vị Đỗ trọng, Cẩu tích, Phá cố chỉ,…

1.1.3. Chứng đầu thống – đau nhức đầu Nguyên nhân gây nên bệnh cũng có thể chia thành hai loại là ngoại cảm và nội thương.
1.1.3.1. Nhức đầu về hàn: Thường đầu não đau ran đến răng, rét run cầm cập, chân tay quyết lạnh, hơi thở lạnh, mạch trầm trì hữu lực - do lạnh nên co mạch. Phép chữa chủ yếu là tán hàn, phải thường cứu tả các huyệt A thị, Dương bạch, Thái dương, Giáp xa, Ngoại quan, Đản trung, Trung quản, Túc tam lý, và có thể dùng bài Khương hoạt hắc phụ thang (Khương hoạt, Bạch chỉ, Ma hoàng, Phòng phong, Phụ tử, Thăng ma, Thương truật, Cam thảo). Nếu do cảm phong hàn, thì có đau đầu, đau thân mình, phát sốt sợ gió, sợ lạnh, mạch phù khẩn, huyết áp tăng, phải dùng cứu tả Ngoại quan, Phong môn, A thị huyệt, và thuốc có thể dùng bài Hương tô tán (Trần bì, Hương Phụ, Tô diệp, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo) hoặc Quế chi thang (Quế chi, Bạch thược, Sinh khương, Cam thảo, Đại táo) Ngoài ra, Y học cổ truyền còn xem vào vị trí đau nhức đầu theo lục kinh mà có các vị thuốc dẫn vào từng kinh như sau: Ở Thái dương dùng Cảo b 4 ản, Quế chi; Dương minh dùng Bạch chỉ; Thiếu dương dùng Sài hồ: Thiếu âm dùng Tế tân; Thái âm dùng Thương truật; Quyết âm dùng Ngô thù.
1.1.3.2. Nhức đầu về phong: Thì đầu mắt choáng váng, phát nóng có mồ hôi, sợ gió, co giật, mạch phù huyền, phép chữa chủ yếu phải khu phong, dùng châm hoặc cứu tả các huyệt Hợp cốc, Ngoại quan, Phong môn, A thị, về thuốc có thể dùng bài Khư phong thanh thượng tán (Hoàng cầm, Khương hoạt, Phòng phong, Sài hồ, Bạch chỉ, Xuyên khung, Kinh giới, Cam thảo)
1.1.3.3. Nhức đầu thuộc về nhiệt: Phát nóng, nhiều mồ hôi, miệng khát, tâm phiền, mặt mắt đỏ, thích mát, sợ nóng, tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện bí kết, mạch hồng sác, chủ yếu phải thanh nhiệt, thường dùng châm tả các huyệt Hợp cốc, Khúc trì, Nội đình, và có thể dùng Thanh không cao (Khương hoạt, Hoàng liên, Phòng phong, Sài hồ, Xuyên khung, Hoàng cầm, Cam thảo) gia Tri mẫu, Thạch cao, hoặc bài Hoàng liên giải độc thang (Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm, Chi tử).
1.1.3.4. Nhức đầu về thất tình: Mọi loại thất tình đều có thể gây đau đầu, mất ngủ. Nhưng trong cơn huyết áp tăng, thường là do hỏa ở can đởm và tâm bị uất lại, mỗi khi xúc phạm đến là phát ra, kèm đau ran xuống hai bên sườn, mạch huyền sác, thường dùng Tâm lý liệu pháp khắc chế như Bài 6, cùng châm tả Bách hội, Tứ thần thông, Nội quan, Thần môn, Tam âm giao, và kết hợp với bài Sài hồ thanh can tán (Đương quy, Thược dược, Xuyên khung, Địa hoàng, Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Sơn chi, Liên kiều, Cát cánh, Ngưu bàng tử, Qua lâu căn, Bạc hà diệp, Cam thảo).
1.1.3.5. Nhức đầu vì ăn uống không điều độ: Như thức ăn, bia rượu quá độ, gây đình trệ, trọc khí xông lên trên, gây đau đầu, khó ngủ, ngực bụng đầy trướng, ợ hăng, nuốt chua, mạch hoạt. Phép chữa lại chủ yếu phải tiêu đạo, dùng châm tả hoặc cứu tả Bách hội, Thái dương, Trung quản, Nội quan, Phong long, và thuốc có thể dùng bài Bảo hòa hoàn (Bạch linh, Thần khúc, Liên kiều, Bán hạ, Trần bì, La bạc tử, Sơn tra).

1.1.4. Chứng thất miên – mất ngủ. Cổ nhân còn có khi gọi là không ngủ được, không nằm được hoặc mắt không nhắm được
1.1.4.1. Vì âm hư, dương khí không vào phần âm được nên còn gồm có các chứng ngủ thấy chiêm bao vơ vẩn, lưng đau, gối mỏi, đau đầu, choáng váng, miệng khát, mồ hôi trộm, lưỡi gầy đỏ sẫm, ít rêu, mạch tế sác, nên tư âm tiềm dương, dùng châm tả các huyệt Bách hội, Tứ thần thông, Nội quan, cùng châm bổ Thái khê, Tam âm giao, và về thuốc có thể dùng bài Trân châu mẫu thang (Trân châu mẫu, Đương quy, Thục đia, Phục thần, Đảng sâm, Toan táo nhân, Long cốt, Bá tử nhân).
1.1.4.2. Vì đàm thấp trở ngại ở trong thì thường kiêm thêm các chứng trong ngực đầy tức, đầu nặng nề choáng váng, ăn ít, ăn không ngon, rêu lưỡi nhờn dày, mạch hoạt hữu lực; nặng hơn thì vít lấp tâm khiếu mà gây nên cuồng loạn, kinh sợ. Phép chữa chủ yếu là trừ đàm, dùng châm hoặc cứu tả các huyệt Dương bạch, Thái dương, Nội quan, Phong long, đối với thuốc có thể dùng những bài Bán hạ truật mễ thang (Bán hạ, Truật mễ), Nhị trần thang (Trần bì, Bán hạ, Bạch linh, Cam thảo), …

1.2. Thêm vào đó, trên thực tế lâm sàng, người thầy thuốc còn thường kết hợp áp dụng với các liệu pháp khác như: Dinh dưỡng, nghỉ ngơi, tập luyện, lao động, sử dụng và tránh stress,… một cách thích hợp để nâng cao hiệu quả trong điều trị bệnh.

1.3. Dù sao, các mục trên đây vẫn chỉ là các tình trạng nhất định nào đó, không thể nói hết được mọi tình trạng của các người bệnh, nên trên thực tế lâm sàng, còn thường phải căn cứ vào các thể chất khác nhau của người bệnh và sự biến hóa của bệnh tình để tiến hành những phép điều trị khác cho phù hợp nhất. Cũng ví như Y học hiện đại: Điều trị Tăng huyết áp phải theo khá nhiều nguyên nhân khác nhau, theo các giai đoạn bệnh khác nhau; Điều trị Cơn tăng huyết áp cấp tính hoặc chỉ là bệnh Tăng huyết áp; Điều trị bệnh Tăng huyết áp đã có Suy tim, Suy thận; Điều trị người bệnh Tăng huyết áp lại kiêm thêm bệnh khác như Đái tháo đường, COPD, Viêm phế quản mạn, Suy nhược thần kinh, Viêm nhiễm,… & …, thì cũng rất thường phải luôn có các khác nhau.

1.4. Như vậy, chỉ cần với 4 triệu chứng điển hình, thường gặp của bệnh Tăng huyết áp như đã nêu ở trên, rồi lại phải dựa theo các triệu chứng khác kèm theo, chúng ta thấy, Y học cổ truyền, chỉ riêng với chữa bệnh Tăng huyết áp của Y học hiện đại, vấn đề “đồng bệnh dị trị”, thực ra, đồng bệnh mà rất phải dị trị - một bệnh thường luôn có nhiều thể bệnh khác nhau, nên việc điều trị phải có những thích ứng luôn luôn khác nhau cũng càng là một thực tế rất khách quan. Nói cách khác, chỉ trên một bệnh Tăng huyết áp, đã thấy các thầy thuốc Y học cổ truyền phải luôn “trị bệnh cầu kỳ bản” “nhân chứng xử phương”, nghĩa là cần phải hết sức biện chứng, logic và chính xác theo đúng các nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh của Y học cổ truyền.

1.5. Từ lâu, chúng ta đã nhận thức rõ được là:
1.5.1. Về các triệu chứng trên lâm sàng của bệnh tật giữa 2 nền y học thường không có gì khác nhau, nếu có khác, cũng chỉ khác nhau ở ngôn ngữ nói giữa hai nền y học.
1.5.2. Về nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh, hai nền y học đang giải thích và chứng minh thường là có những khác nhau.
1.5.3. Y học hiện đại đang khác và hơn hẳn Y học cổ truyền ở các triệu chứng cận lâm sàng. Đây cũng chính là các thước đo và các tiêu chuẩn vàng nhất về hiệu quả và tính an toàn của mọi phương pháp điều trị bệnh. Tuy nhiên, càng ngày, các triệu chứng thuộc cận lâm sàng cũng sẽ vừa càng được hiện đại, chính xác, lại vừa càng được mới mẻ thêm nhiều hơn nữa. Và cũng tất nhiên, chúng ta cũng rất cần chú ý đến các hằng số sinh bệnh lý theo chủng tộc, dân tộc, lứa tuổi, giới tính, mà tốt hơn nữa là của từng mỗi người. Cho nên, công tác thăm khám sức khỏe định kỳ cho nhân dân càng là một giải pháp rất cần thiết.
1.5.4. Y học hiện đại cũng giúp chúng ta nhận ra rằng: Tất cả các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của bất kỳ một bệnh lý nào đó, suy cho cùng, bản chất chính chỉ là hậu quả và kết quả của những rối loạn do hoặc tăng lên hoặc/và giảm đi hoặc/ và xuất hiện mới mẻ của các quá trình đồng hóa, dị hóa cũng như quá trình chuyển hóa và các vật chất chuyển hóa nhất định nào đó tại một hoặc nhiều bộ phận bị bệnh tương ứng trong cơ thể. Hoặc nói cách khác, bản chất cũng chính chỉ là do hậu quả và kết quả của những rối loạn, những thay đổi bệnh lý về cấu trúc sống của một hoặc nhiều các cơ quan, tổ chức nào đó trong cơ thể gây ra. Điều này, theo Y học cổ truyền, chính là do những mất cân bằng về âm và dương trong cơ thể gây ra.

1.6. Đến nay, hầu như các bệnh viện đều đã có khả năng thực hiện được nhiều các chỉ định thuộc cận lâm sàng. Và có một thực tế cũng rất hiển nhiên là: Nền Y học cổ truyền đã có được sự trải nghiệm, kinh nghiệm về điều trị bệnh trên thực tế hữu dụng hàng nghìn năm, nên nếu sử dụng các liệu pháp của YHCT đúng và chính xác, thì chắc chắn hiệu quả trên thực tế lâm sàng và tất nhiên cả cận lâm sàng sẽ thường là cao mà an toàn một cách đáng kể cho tất cả mọi người bệnh, kể cả trong các bệnh cấp tính. Bởi vì, hiện tượng cũng rất thường phù hợp và thống nhất với bản chất, nên người bệnh từ trước đến nay, đã rất nhiều lúc với hàng loạt các triệu chứng bệnh lý lâm sàng, và ngày nay cũng với cả hàng loạt các triệu chứng cận lâm sàng kèm theo, sau khi được chữa bằng Y học cổ truyền, đã rất nhiều khi đỡ dần, tinh thần vui vẻ, tin tưởng nhiều hơn vào Y học cổ truyền bằng chính cả các trực giác của người thầy thuốc và rồi khỏi hẳn các triệu chứng lâm sàng với nhiều an toàn cao - cân bằng âm dương đã được hồi phục, tức chính là khi đó, các rối loạn chuyển hóa tương ứng đã được hồi phục, thì không một lý gì mà chính những lúc đó, lại không có những cải thiện và rồi cũng khỏi hẳn cả các triệu chứng bệnh lý về cận lâm sàng (Bởi nói một cách cụ thể và chính xác, thì rõ ràng là: Các triệu chứng bệnh lý về cận lâm sàng cũng chỉ là hậu quả và kết quả của các rôi loạn chuyển hoá theo từng hoặc các bệnh lý nhất định nào đó).

1.7. Nền Y học cổ truyền cũng đã được coi là nền y học điều trị bệnh có gốc, có ngọn, có bản chất và hiện tượng, nên cũng không có một lý do gì mà chúng ta không làm các xét nghiệm, các thăm dò về các triệu chứng bệnh lý cần thiết của cận lâm sàng đối với từng cũng như mọi người bệnh và thể bệnh trong Tăng huyết áp cũng như mọi bệnh khác. Bởi đây cũng sẽ là tiêu chuẩn rất quan trọng để đánh giá khách quan nhất các hiệu quả và tính an toàn của Y học cổ truyền trong điều trị bệnh này cũng như mọi bệnh khác của Y học hiện đại.

2. KẾT LUẬN
Như vậy, qua một số mục đó, cũng đã phần nào góp phần đạt được các mục đích sau:
2.1. Nguyên lý “đồng bệnh dị trị” cũng vẫn luôn đúng đắn giữa hai nền y học cả trong từng liệu pháp của Y học cổ truyền.
2.2. Góp phần khẳng định hiệu quả và tính an toàn thường cao của các liệu pháp Y học cổ truyền trên cả các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.
2.3. Tất cả những điều đó, một mặt, cũng là để góp phần phục vụ sức khỏe toàn diện của người bệnh một cách có hiệu quả, an toàn và kinh tế cao hơn, và mặt khác, cũng chỉ để nhằm không ngừng kết hợp và phát triển ngày càng chặt chẽ, nhiều ưu việt hơn giữa hai nền y học.
ThS. Nguyễn Minh Thuỵ & CS
Hội Châm cứu Việt Nam -
Hội Châm cứu Hải Phòng

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây