
TS. Đăng Văn Hưng
CLB Hải phòng học.
Có thể nói Phật giáo Việt Nam có bề dày lịch sử hơn hai chục thế kỷ theo hiểu biết hiện nay của giới nghiên cứu lịch sử. (Phật giáo vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên ). Với bề dầy lịch sử phát triển, Phật giáo Việt Nam đã có ảnh hưởng lâu dài và sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống văn hóa xã hội, chi phối mạnh mẽ tới tư tưởng, văn hóa và nghệ thuật của đất nước Viêt Nam. Mặc dù có lúc thăng trầm, song Phật giáo vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân, Phật giáo đã trở thành một bộ phận cấu thành văn hóa Việt Nam, hòa quyện cùng văn hóa dân tộc Việt Nam trở thành dòng máu chảy trong con người Việt Nam. Trong lịch sử phát triển Phât giáo Viêt Nam, chúng ta không thể không kể đến Phật giáo Xứ Đông, một trong những địa danh khởi nguồn cho Phât giáo Việt Nam. Trong hành trình tìm hiểu sự phát triển Phật giáo của những nhà nghiên cứu, thì Phật giáo Xứ Đông có thể coi là một trong những địa danh khởi nguồn cho Phật giáo Việt Nam với Chùa Hang Đồ Sơn (Cốc Tự) thuộc địa phận thành phố Hải Phòng ngày nay. Tương truyền, chùa do một nhà sư Thiên Trúc đã theo các thương gia sang Giao Châu là một phủ thời xưa, thuộc vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay để truyền bá đạo Phật vào thế kỷ thứ 2 TCN.
Trải qua quá trình phát triển ấy, Phật giáo Xứ Đông đã để lại cho đất Xứ Đông ngày xưa mà ngày nay bao gồm 3 địa danh của Thành phố Hải Phòng, tỉnh Hải Dương và tỉnh Quảng ninh và cho dân tộc Việt Nam nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần có giá trị đặc sắc. Khối di sản này bao gồm hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong đó đi sản văn hóa vật thể có thể kể đến kiến trúc Phật giáo; ngôn ngữ Phật giáo; di sản Phật giáo; sắc phục Phật giáo. Nói đến kiến trúc Phật Giáo là nói tới không gian, kiến trúc chùa, tháp; Các di sản văn hóa vật thể Phật giáo còn là các tác phẩm điêu khắc tượng thờ, tranh thờ Phật giáo, hoành phi, câu đối, vật liệu, trang trí kiến trúc; đồ thờ, pháp khí; về ngôn ngữ Phật giáo là nói tới tư liệu văn tự, kinh sách, bài khóa tụng trong các nghi lễ Phật giáo, pháp phục.... ; về di sản văn hóa phi vật thể, đó là những nghi lễ Phật giáo, nghi thức tụng niệm, tu tập, nghi lễ của lễ hội.... Trong di sản văn hóa Phật giáo Xứ Đông vô cùng phong phú, còn có những di sản văn hóa chưa được phát hiện, chưa được khai quật cũng như còn bị thất lạc cần được nghiên cứu, tìm kiếm và phục dựng lại. Vấn đề đặt ra cho mỗi chúng ta ngày nay trong thời đại cánh mạng công nghê 4.0 phải làm gì để bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử Văn hóa Phật giáo Xứ Đông nhằm phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh, tinh thần cống hiến của người dân Xứ Đông ngày xưa nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung. Việc làm đó chính là một trong những việc triển khai thực hiện tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc sáng 24-11-2021, Tổng bí thư đã nhiều lần khẳng định vai trò to lớn của văn hóa: ‘Văn hóa còn là dân tộc còn”.
Nói đến Xứ Đông xưa là nói tới Xứ Đông gồm 4 phủ 1:
I – Phủ Thượng Hồng có 3 huyện ( Ngày nay bao gồm các huyện của tỉnh Hưng Yên và Hải Dương).
II – Phủ Hạ Hồng có 4 huyện ( Ngày nay bao gồm các huyện của thành phố Hải Phòng và Hải Dương).
III – Phủ Nam Sách có 4 huyện (Ngày nay bao gồm các huyện của thành phố Hải Phòng và Hải Dương).
IV – Phủ Kinh Môn có 7 huyện (Ngày nay bao gồm các huyện của thành phố Hải Phòng, Hải Dương và Quảng Ninh).
Những ngôi chùa tiêu biểu ở Hải Dương và một số nét sơ lược về các chùa này2:
1) Khu di tích Chùa Nhẫm Dương (Kinh Môn, Hải Dương).
Quần thể Di tích chùa Nhẫm Dương tọa lạc tại phường Duy Tân, thị xã Kinh Môn. Chùa được xây dựng từ thời Trần, đây là một ngôi chùa lớn thờ Phật.
2) Chùa Muống (hay chùa Cáy). Chùa Muống tọa lạc tại địa phận xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành. Đây là một trong những ngôi chùa được xây dựng sớm ở đất Kim Thành, đến thời Trần do sư Tuệ Nhẫn, một môn đệ của thiền phái Trúc Lâm đã chủ trì xây dựng và mở rộng chùa trở nên khang trang. Đến thời Nguyễn chùa có trên 120 gian, có tài liệu ghi là 124 gian, 32 tháp sư, hàng trăm pho tượng cổ và nhiều bia ký có giá trị.
3) Chùa Giám (hay Nghiêm Quang tự), thuộc xã Định Sơn, huyện Cẩm Giàng. Căn cứ vào tài liệu lịch sử và bộ dã sử của Ngô Vi Liễn thì chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đến thế kỷ XIV, Thiền sư Tuệ Tĩnh hưng công trùng tu. Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, chùa dựng xây theo kiểu nội công ngoại quốc kiến trúc thời Lê. Đây là chốn danh lam cổ tích của vùng đất bên hữu ngạn sông Thái Bình. Chùa đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá Quốc gia ngày 13/3/1974.
4) Chùa Động Ngọ (còn có tên gọi là chùa Linh Ứng, chùa Cửu Phẩm)
Chùa Động Ngọ thuộc thôn Cập Nhất, xã Tiên Tiến, huyện Thanh Hà. Chùa được xây dựng từ thế kỷ X (triều Đinh).
5) Chùa Thanh Mai. Chùa được xây dựng năm 1329 trên sườn núi Thanh Mai ở độ cao khoảng 200 mét (còn gọi là núi Tam Ban – ba cấp núi nối liền nhau của ba tỉnh Bắc Giang – Hải Dương – Quảng Ninh thuộc vòng cung Đông Triều). Chùa được xây dựng ở thời Trần, do Thiền Sư Pháp Loa – Đệ nhị Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sáng lập.
6) Chùa Côn Sơn: Chùa Côn Sơn còn có tên gọi khác là Thiên Tư Phúc tự, tọa lạc ở núi Côn Sơn thuộc huyện Chí Linh. Ngôi chùa nổi tiếng này là một trong ba trung tâm lớn thuộc thiền phái Trúc Lâm trước đây. Chùa đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt năm 1994.
7) Chùa Trăm Gian, còn được gọi là chùa An Ninh. Chùa tọa lạc tại thôn An Đông, xã An Bình, huyện Nam Sách. Đây là ngôi cổ tự linh thiêng ở xứ Đông. Năm 1691, chùa được vua Lê Huy Tông cấp tiền xây dựng với quy mô 100 gian, sau này vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 chùa được trùng tu nhiều lần. Chùa đã được công nhận di tích lịch sử-văn hóa cấp Quốc gia năm 1990.
Các chùa tiêu biểu tại Đông Triều (Quảng Ninh) và một số nét sơ lược về các chùa này 3.
1) Am – chùa Ngọa Vân: Chùa – Am Ngọa Vân nằm tại xã An Sinh và Bình Khê, thị xã Đông Triều. Chùa được xây dựng vào thời Trần. Với vị trí cao hơn 500 mét so với mực nước biển, ngôi chùa có tầm nhìn hướng thẳng ra đồi núi trập trùng. Chùa nằm tựa lưng vào đỉnh Ngọa Vân quanh năm mây phủ, xa xa là sông Cầm uốn lượn đẹp như tranh vẽ.
2) Chùa Lân (Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử).
Chùa Lân là ngôi chùa trên núi Yên Tử, thuộc địa phận thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Do chùa nằm trên một quả đồi có hình con lân nằm phủ phục nên được gọi là chùa Lân.
3) Chùa Quỳnh Lâm – Một trong những trung tâm quan trọng của Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam.
Chùa tọa lạc trên sườn đồi núi Tiên Du thuộc xã Hà Lôi, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (nay thuộc phường Tràng An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Chùa Quỳnh Lâm được xây dựng từ thời Lý, niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) đời vua Lý Thánh Tông. Chùa Quỳnh Lâm được công nhận là Di tích lịch sử -văn hóa cấp Quốc gia năm 1991.
4) Chùa, quán Ngọc Thanh
Chùa, quán Ngọc Thanh là tên thường gọi. Ở đây chùa có tên chữ là “Linh Khánh tự”; đạo quán là “Ngọc Thanh quán” được xây dựng trên lưng chừng núi Đạm (hay núi Đạm Thủy), thuộc thôn Đạm Thủy, xã Thủy An, thị xã Đông Triều. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ).
5) Chùa Hoa Yên (Hoa Yên Tự) và các vườn tháp.
Chùa tọa lạc trên sườn núi đầu voi, ngọn núi cao nhất của dãy núi Yên, thuộc cánh cung Đông Triều. Nơi dựng chùa, tương truyền là nơi rồng nằm và chùa xây dựng trên trán rồng.
Chùa được xây dựng từ thời Lý, có tên là Vân Yên.
6) Chùa Trung Tiết (chùa Tuyết) thuộc thôn Nghĩa Hưng, xã An Sinh (Đông Triều – Quảng Ninh). Tương truyền, chùa do hai vị trung thần Đặng Tảo và Lê Chung của vua Trần Anh Tông xây dựng. Chùa thuộc hệ thống Phật giáo Trúc Lâm, được xếp hạng là di tích Lịch sử-văn hóa Quốc gia đặc biệt năm 2013.
Những ngôi chùa tiêu biểu ở Hải Phòng và một số nét sơ lược về các chùa này 4.
1) Chùa Hang (cốc tự) ở Đồ Sơn, ngôi chùa là chứng tích của việc Phật giáo Ấn Độ du nhập vào miền Bắc nước ta. Chùa Hang có tên chữ là Cốc tự, xưa thuộc địa bàn Vạn Tác, xã Đồ Sơn; nay thuộc phường Vạn Sơn, quận Đồ Sơn. Chùa Hang theo truyền ngôn có từ trước công nguyên.
2) Chùa – tháp Tường Long
Chùa hình thành thời Lý Thánh Tông. Công trình kiến trúc Phật giáo này được xây trên ngọn Long Sơn- thuộc quân Đồ Sơn thành phố Hải Phòng. Ngọn Long Sơn cao 128m so với mực nước biển. Trải qua thời gian hàng nghìn năm bị hủy hoại bởi thiên nhiên và con người, ngày nay tháp Tường Long tồn tại dưới dạng di tích khảo cổ học.
3) Chùa Đót Sơn (tên chữ Non Đông tụ) ở thôn Quan Bồ, xã Cấp Tiến, Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Chùa Đót Sơn có từ thời nhà Lương đô hộ. Chùa Hang Đồ Sơn và Chùa Non Đông xưa được xác định là một trong những nơi đầu tiên mà Phật giáo Ấn Độ du nhập vào Việt Nam trên vùng Đồng Bằng Bắc Bộ.
4) Chùa Mỹ Cụ (hay còn gọi là Linh Sơn tự) nằm tựa lưng vào núi đất nhỏ chạy dài có tên gọi “ núi con rồng” thuộc thôn Mỹ Cụ, xã Chính Mỹ, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
5) Chùa Long Hoa.
Chùa Long Hoa (Long Hoa tự) được xây dựng cùng thời với tháp Tường Long (Đồ Sơn). Phế tích chùa Long Hoa và khu di tích lịch sử danh thắng núi Voi được xếp hạng Di tích cấp quốc gia năm 1962.
6) Chùa chùa Ráng (Diên Phúc tự) ở thôn Thanh Lãng, xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên. Chùa cũng là nơi trạng nguyên Lê Ích Mộc từng học tập và tu Phật
7) Cụm di tích đình-chùa thôn Cốc Liễn, xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy, nơi thờ Phật và Thánh Đông An (Chử Đồng Tử).
8) Chùa Đông Khê (tên chữ Nguyệt Quang Tự) thuộc phường Đông Khê, quận Ngô Quyền-Hải Phòng.
9) Chùa Hàng Kênh (Dư Hàng). Chùa thuộc xã Dư Hàng Kênh (huyện An Dương) xưa, nay có địa chỉ tại số 121 phố Dư Hàng, phường Hồ Nam, quận Lê Chân.
10) Chùa Mét (Thiên Hương tự) là một ngôi chùa cổ trên địa bàn thôn Lê Lợi xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Chùa hình thành từ đời Trần.
11) Chùa Quang Long (hay chùa Trấn Dương) thuộc xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, là ngôi chùa có kiến trúc lạ, độc đáo.
12) Chùa Trà Phương hay còn gọi là chùa Bà Đanh là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời nằm tại làng Trà Phương, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy. Theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật thì ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Lý và được trùng tu lớn vào thời nhà Mạc thế kỷ XVI. Năm 2007. Chùa đã được nhà nước công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Hiện chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật thời Mạc có giá trị lịch sử-mỹ thuật, đặc biệt là pho tượng Thái tổ Mạc Đăng Dung và bức phù điêu Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toàn. Hai bảo vật này đã được công nhận là bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2283/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy có thể thấy rằng di tích lịch sử Văn hóa Xứ Đông là cả một kho tư liệu vô cùng quý giá và đồ sộ đã có và sẽ được bổ sung theo năm tháng thông qua nghiên cứu, khảo cổ, tìm kiếm phát hiện ngày một đồ sộ hơn. Việc lưu giữ, bảo tồn giá trị vô cùng quý gía đó cho con cháu mai sau là một việc làm rất cấp thiết và cấp bách; đó là việc làm nhằm tôn vinh, quảng bá các giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ; lưu trữ giá trị vât chất và tinh thần; giáo dục lịch sử truyền thống của văn hóa Phật giáo Xứ Đông góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và làm phong phú các sản phẩm du lịch vùng Băc Bộ và của Việt Nam. Trong thời đại cuộc cánh mạng 4.0 chúng ta có những công cụ hiện đại giúp ta trong quá trình bảo tồn cũng như tạo dựng được lịch sử quý báu của Văn hóa Phật giáo Xứ Đông, việc xây dựng lịch sử quý báu của Văn hóa Phật giáo Xứ Đông sẽ góp phần xây dựng nền Công nghiêp Văn hóa cho thành phố Hải Phòng, Hải Dương và Quảng Ninh trong việc thực hiện Quyết định Số: 1755/QĐ-TTg, ngày 08 tháng 09 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Cũng như sự chỉ đạo trong bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc tháng 11/2021 "Không thể đạt được sự phát triển bền vững nếu không quan tâm đến văn hóa". Chúng ta cần nhận thức đầy đủ về bảo tồn di sản tốt, đồng thời phải khai thác được giá trị kinh tế của bảo tồn, và cần hài hòa lợi ích bảo tồn giá trị văn hóa Phật giáo Xứ Đông với phát triển kinh tế xã hội, có như vậy mới xây dựng được nền công nghiệp văn hóa Phật giáo Xứ Đông nói riêng và văn hóa nói chung lành mạnh.
Những công nghệ có thể sử dụng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử Văn hóa Phật giáo Xứ Đông.5
Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử Văn hóa Phật giáo Xứ Đông trong thời đại CMCN 4.0 là thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số.
Chuyển đổi số (Digital Transformation) chính là cách đi trong chặng đường phát triển thời Cách mạng Công nghệ 4.0. Chuyển đổi số là sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một tổ chức, ứng dụng các công nghệ số để thay đổi cách thức vận hành, mô hình tổ chức và văn hóa để đem đến những giá trị mới cho tổ chức. Như chúng ta đã biết việc ứng dụng công nghệ số (digitalize) vào tất cả các khía cạnh của hoạt động của tổ chức dẫn tới sự thông minh hóa mọi mặt của tổ chức từ sự thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình thực hiện, văn hóa của tổ chức.
Các công nghệ số như:
Dữ liệu lớn (Bigdata) đươc hiểu đơn giản là một lượng dữ liệu khổng lồ được Công nghệ 4.0 cho phép con người có thể thu thập, chứa đựng được nó.
Internet vạn vật (IoT) hay vạn vật kết nối được hiểu Internet giúp kết nối các thiết bị với nhau và với con người, thu thập và truyền dữ liệu trong thời gian thực qua một mạng internet duy nhất.
Điện toán đám mây (Cloud Computing ) đươc hiểu mọi dữ liệu đều được tổ chức, sắp xếp và lưu trữ trên hệ thống của các nhà cung cấp dịch vụ.
Chuỗi khối ( blockchain) là một chuỗi các khối có chứa thông tin. Trong hệ thống Blockchain các Khối hoạt động độc lập có khả năng xác thực các thông tin mà không đòi hỏi “dấu hiệu của niềm tin”.
Trí tuệ nhân tạo (AI – Artificial Intelligence ) có nghĩa là trí tuệ do con người tạo ra cho máy móc. Thuật ngữ này chỉ một chương trình máy tính vô cùng phức tạp, có thể tự học và đưa ra các quyết định mà không cần lập trình trước. Công nghệ này mô phỏng quá trình suy nghĩ và hoạt động của con người cho máy móc, đặc biệt là hệ thống máy tính.
Như vậy để thực hiện chuyển đổi số trong bảo tồn di tích lịch sử Văn hóa Phật giáo Xứ Đông, việc đầu tiên cần làm là phải số hóa được các di sản. “Số hóa” là hình thức chuyển đổi dữ liệu từ giá trị vật lý thành dạng số. Việc số hóa di sản có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ, bảo tồn, trùng tu, nghiên cứu và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể di tích lịch sử Văn hóa Phật giáo Xứ Đông, bởi công nghệ số sẽ thực sự là “cây cầu” kết nối các thế hệ trong việc bảo tồn lưu giữ di sản vô cùng quý giá của Tiền Tổ.
Từ dữ liệu về di sản văn hóa, tiếp tục nghiên cứu xây dựng bản đồ số, quản lý, liên kết dữ liệu di sản với nhau; cũng từ đó phục dựng di sản văn hóa vật thể, lưu giữ giá trị văn hóa phi vật thể.
Từ dữ liệu về di sản vật thể và phi vật thể di tích lịch sử Văn hóa Phật giáo Xứ Đông, có thể nghiên cứu ứng dụng công nghệ đa phương tiện như kỹ thuật đồ hoạ máy tính, xử lý video, xử lý ảnh, xử lý âm thanh hiện đại kết hợp với các kỹ thuật phân tích, học máy để xử lý và lưu trữ dữ liệu về các hình thức văn hoá phi vật thể trên máy tính phục vụ cho mục đích bảo tồn, tra cứu, học tập và tạo ra các sản phẩm nghệ thuật mới.
Để giới thiệu trưng bày lâu dài và rộng rãi tới công chúng, đặc biệt là đối với công chúng chưa hoặc không có điều kiện thăm quan các di sản đồng thời cũng là một cách lưu trữ tư liệu cần ứng dụng công nghệ số hóa 3D và thực tế ảo để trình chiếu hiện vật; xây dựng thiết kế video để mã hóa phục vụ cho việc trưng bày, tham quan. Việc ứng dụng công nghệ số hóa 3D và thực tế ảo không chỉ giúp tái hiện và bảo vệ lịch sử một cách chân thực, đa diện, bền vững mà các hình thức tiếp cận bằng thiết bị công nghệ còn làm tăng sức hấp dẫn, có khả năng tiếp cận tới du khách mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, qua đó đổi mới cách thức trưng bày và dịch vụ phục vụ du khách tham quan.
Ngoài ra có thể nghiên cứu xây dựng trang website với việc tích hợp nhiều ngôn ngữ, như tiếng Việt, Anh, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.. để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trong quá trình khai thác, sử dụng thông tin về di sản; cũng như góp phần tuyên truyền, quảng bá về di sản một cách hiệu quả. Ưng dụng công nghệ số là một phần không thể thiếu trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản, vừa góp phần lưu giữ hình ảnh, tư liệu, vừa mang di sản đến gần hơn với công chúng.
- Ứng dụng công nghệ số hóa 3D và thực tế ảo vào để mô phỏng lại các vở diễn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam. Hiện tại, Vitage đã xây dựng được 3 phòng trình diễn và trải nghiệm cho 3 loại hình văn hóa: khám phá văn hóa phi vật thể, múa rối nước và nhạc cụ dân tộc.
- Ứng dụng công nghệ trong việc triển khai hệ thống thuyết minh tự động (Audioguide).
- Ứng dụng công nghệ số trong bảo tồn, phát huy di sản văn hóa trong thời gian tới.
- Công nghệ RFID (radio frequency identification - nhận dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến) và blockchain (công nghệ chuỗi khối), đảm bảo tính minh bạch, độc bản của sản phẩm trên cả không gian thực và số.
- Công nghệ LiDAR (light detection and ranging - công nghệ quét và đo tia sáng hồng ngoại) và VR/AR (thực tế ảo, thực tế tăng cường) để đưa các sản phẩm vật lý lên môi trường số.
Khó khăn: Những khó khăn, thách thức đáng kể đó là công nghệ số ngày càng phát triển, trong khi nền tảng mạng Internet, kinh phí đầu tư cho xây dựng nội dung, nguồn nhân lực vận hành… ở Việt Nam còn hạn chế. Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ thì công nghệ rất nhanh bị lạc hậu, việc cập nhật ứng dụng công nghệ hiện đại lại cần đầu tư rất nhiều công sức, trí tuệ và kinh phí rất lớn. Vì vậy, việc đầu tư ứng dụng công nghệ số cần được tính toán kỹ lưỡng, lựa chọn hiện vật (đặc biệt là nhóm hiện vật cấp thiết, hiện vật có giá trị, quý hiếm) và lựa chọn kỹ thuật, công nghệ sao cho phù hợp là việc làm rất cần thiết và quan trọng./.
TLTK:
1/ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4” của tác giả Klaus Schwab ; Biên dịch: Đồng Bích Ngọc - Nguyễn Thị Mỹ Anh ; Nhà xuất bản: Bộ Ngoại giao
2/ Dữ Liệu Lớn – Viktor Mayer-Schonberger, Kenneth Cukier. Dịch giả: Vũ Duy Mẫn
Nhà xuất bản: NXB Trẻ- Năm xuất bản: 2014
3/ 12 Xu Hướng Công Nghệ Trong Thời Đại 4.0 - Kevin Kelly Nhà xuất bản: NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân; Năm xuất bản: 2019.
4/ Chuyển đổi số thế nào - Hồ Tú Bảo - Nguyễn Nhật Quang; Nhà xuất bản: Thông tin và Truyền thông; Năm xuất bản: 2022.
1 Di tích Phật giáo xứ Đông. Phần I: Những ngôi chùa tiêu biểu ở Hải Phòng- Phạm Văn Thi, Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng.
2 Di tích Phật giáo Xứ Đông. Phần II: Những ngôi chùa tiêu biểu ở Hải Dương hiện nay. http://haiphonghoc.com/di-tich-phat-giao-xu-dong-phan-ii-nhung-ngoi-chua-tieu-bieu-o-hai-duong-hien-nay/
3 Di tích Phật giáo xứ Đông. Phần III: Di tích Phật giáo tiêu biểu tại Đông Triều (Quảng Ninh). Pham Văn Thi http://haiphonghoc.com/di-tich-phat-giao-xu-dong-phan-iii-di-tich-phat-giao-tieu-bieu-tai-dong-trieu-quang-ninh/
4 Di tích Phật giáo xứ Đông. Phần I: Những ngôi chùa tiêu biểu ở Hải Phòng - Phạm Văn Thi, Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng https://haiphonghoc.com/di-tich-phat-giao-xu-dong-phan-i-nhung-ngoi-chua-tieu-bieu-o-hai-phong/
5 http://baovanhoa.vn/van-hoa/artmid/428/articleid/20970/ung-dung-cong-nghe-trong-linh-vuc-van-hoa-%E2%80%93-mot-so-thach-thuc-lon)
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn