LƯƠNG ĐẮC BẰNG – NGƯỜI THẦY CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tư tưởng, nhà văn hóa, nhà tiên tri, ngôi sao Khuê trên bầu trời Đại Việt trong suốt thế kỷ thứ XVI. Tên tuổi và sự nghiệp của ông để lại còn vang mãi cho đến ngày nay. Tuy nhiên, để có được tầm vóc của một bậc vĩ nhân trong lịch sử, thì không thể không nhắc đến Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, một vị quan thanh liêm, cương trực, một người thầy tài năng, mẫu mực đã có công lao giáo dục đào tạo cho đất nước một nhân tài kiệt xuất, đó là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
XUẤT THÂN TỪ DÒNG HỌ KHOA BẢNG VÀ CÂU CHUYỆN HY HỮU TRONG LỊCH SỬ KHOA CỬ VIỆT NAM
Dòng họ Lương ở xã Trác Vĩnh, giáp Cổ Đằng (nay thuộc xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa) nổi tiếng là hay chữ. Thân sinh của Lương Đắc Bàng là cụ Lương Hay (1401 – 1484), vốn là người thông minh học rộng, đỗ đầu thi Hương năm 1460 thời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Thái thường Tự thừa, được vua cử đi sứ nhà Minh.
Khu mộ dòng họ Lương tại Hội Triều, trong đó có mộ của Lương Hay và Lương Đắc Bằng (Nguồn: Họ Lương Việt Nam)
Cũng như những người khác, khi có tuổi, cụ Lương Hay mở lớp nhận học trò. Ông đã đào tạo dược nhiều nhân tài phụng sự xã tắc, trong đó nổi tiếng nhất là Lương Thế Vinh. Lương Thế Vinh được xem là thần đồng, học nhanh thuộc, nhanh hiểu, lại rất giỏi tính toán. Trò giỏi tìm được thầy hay nên tiến bộ rất nhanh. Khoa thi năm 1463, Lương Thế Vinh 22 tuổi đăng ký dự thi và trở thành Trạng nguyên. Ông là một trong những Trạng nguyên nổi tiếng nhất trong lịch sử.
Lương Đắc Bằng là người con đầu của ông Lương Hay, từ nhỏ tên là Lương Ngạn Ích. Ngạn Ích được giáo dục chu đáo và cũng rất thông minh, ham hiểu biết. Năm 1484, khi Lương Ngạn Ích 12 tuổi thì ông Lương Hay bị ốm nặng. Do tuổi cao sức yếu, trước khi mất ông dặn còn trai đến tìm học trò của mình là Trạng nguyên Lương Thế Vinh để theo học. Lương Ngạn Ích tiến bộ rất nhanh, chẳng mấy chốc đã thông tỏ tứ thư ngũ kinh. Năm 27 tuổi, tại khoa thi Hội năm 1499, Lương Ngạn Ích dự thi kỳ thi Hội và đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, bài thi của ông rất hay khiến vua Lê Hiến Tông cảm phục.
Tương truyền, Lương Ngạn Ích vào kỳ thi cuối cùng là thi Đình, bài thi của ông được chấm đỗ đầu ngang với bài thi của Đỗ Lý Khiêm, nhưng ngôi Trạng nguyên chỉ có một, nên Triều đình ra thêm bài ứng chế cho 2 người làm. Kết quả chấm hai bài cũng đều hay như nhau, Triều đình lại quyết định ra thêm một bài nữa cho 2 người thi tài. Lương Ngạn Ích làm bài rất hay và được chấm loại ưu. Đỗ Lý Khiêm qua quá trình tiếp xúc cũng nhận thấy tài năng và phẩm chất của Lương Ngạn Ích, nên ông đã chủ động viết một bài qua loa lấy lệ nhằm nhường ngôi Trạng nguyên cho Lương Ngạn Ích.
Vua xem bài của Đỗ Lý Khiêm thấy viết rất nông cạn khác hẳn các bài ông làm trước đây thì đoán biết ông muốn nhường lại ngôi vị Trạng nguyên. Vua nói việc này cho Lương Ngạn Ích biết, Lương Ngạn Ích cảm thấy hổ thẹn vì nhân phẩm của mình không sánh được với Đỗ Lý Khiêm, nên quyết định nhường lại ngôi vị Trạng nguyên cho Đỗ Lý Khiêm.
Khoa thi năm 1499 trở thành khoa thi độc nhất vô nhị khi 2 người tài nhất đều nhường nhau, cuối cùng các quan liền nghĩ ra một cách là vẽ vòng tròn trên sân rồng rồi cho 2 người tung quyển thi vào, quyển thi của ai gần tâm vòng tròn hơn sẽ là Trạng nguyên.
Kết quả quyển thi của Đỗ Lý Khiêm nằm trong vòng tròn, còn quyển thi của Lương Ngạn Ích nằm ngoài vòng tròn. Thế là Đỗ Lý Khiêm đỗ Trạng nguyên, còn Lương Ngạn Ích đỗ thứ hai tức Bảng nhãn1.
Triều đình đánh giá rất cao tài năng của Lương Ngạn Ích, Vua đổi tên cho ông thành Lương Đắc Bằng và giữ chức quan Thị Độc, sau đó thăng lên Hàn lâm viện Thị độc Tham chưởng Hàn lâm viện, rồi Lại bộ Tả Thị lang.
Câu chuyện về việc lựa chọn và tiến cử người tài nêu trên còn cho thấy phẩm chất của người trí thức phong kiến đương thời luôn đề cao đức tính khiêm nhường và trọng danh dự.
TRỊ BÌNH THẬP TỨ SÁCH - 14 SÁCH LƯỢC TRỊ NƯỚC
Nhà Lê Sơ trị vì đất nước tròn một thế kỷ (1428-1528) và trải qua 10 đời vua: Từ Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng. Đỉnh cao thịnh trị của nhà Lê Sơ là thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497).
Lương Đắc Bằng đã tham dự triều chính qua 4 triều vua, từ Túc Tông đến Chiêu Tông. Khi bắt đầu ra làm quan, Lương Đắc Bằng được cử giữ chức quan Thị độc, sau đó thăng lên làm Tả Thị lang. Năm 1510 ông giữ chức Lại bộ Thượng thư và giữ chức này qua 4 đời vua là Lê Hiến Tông, Lê Tương Dực, Lê Uy Mục, Lê Chiêu Tông. Dù làm quan dưới cương vị nào thì ông vẫn luôn nổi tiếng là người cương trực, thẳng thắn, nhìn xa trông rộng và được nhiều người kính trọng.

Tượng thờ Lương Đắc Bằng ở xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa
(ảnh: Trần Hồng)
Những năm đầu thế kỷ thứ XVI (1510-1527), nội bộ triều đình nhà Lê chia rẽ, xâu xé phe phái nội bộ, tạo ra một cuộc khủng hoảng cung đình trầm trọng. Đất nước rơi vào cảnh kinh tế đình đốn, xã hội loạn lạc liên miên, khiến lòng dân ly tán, căm ghét vương triều. Ở nông thôn, tình trạng quan lại cướp đoạt ruộng đất của nông dân ngày càng phổ biến, thêm vào đó là nạn cường hào ngày càng trắng trợn, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống của người nông dân; sản xuất nông nghiệp giảm sút. Để có kinh phí cho các cuộc hỗn chiến giữa các phe nhóm phong kiến liên tục xảy ra, triều đình nhà Lê đã phải tăng thuế khóa, phu dịch, khiến cho sức sản xuất của nông nghiệp thêm sa sút, tiêu điều. Thêm vào đó, nạn hạn hán, vỡ đê đã để lại hậu quả nặng nề, nhân dân chết đói nằm gối lên nhau. Phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục và rộng khắp, đã đẩy xã hội vào tình trạng hỗn loạn. Vua Lê Uy Mục lên ngôi (năm 1505), “nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra oai, tàn hại người tông thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành, trăm họ oán giận, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, điềm loạn đã xuất hiện từ đấy”2. Bất bình trước sự sa đọa của Lê Uy Mục, Lương Đắc Bằng đã viết bài Hịch, vạch trần tội ác của Uy Mục: “ Bạo chúa Uy Mục, phận con thứ thấp hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Lần lữa gần 5 năm, tội ác đã đến muôn vẻ. Giết hại người xương thịt, dìm hãm các thần liêu…Tước đã hết mà lạm thưởng không biết, dân đã cùng mà lạm thu vơ vét không thôi. Thuế thu đến tận cùng chân tơ kẽ tóc mà sử dụng tiền như bùn đất, bạo ngược như Tần Chính; đãi công thần như chó ngựa, coi dân chúng như cỏ rác”
Tháng 11 năm Kỷ Tỵ niên hiệu Đoan Khánh thứ năm (năm 1509), Giản Tu Công Lê Oanh trá xưng là Cẩm Giang Vương, dựng cờ chiêu an kéo quân từ Tây Đô về Thăng Long đánh Uy Mục, Lương Đắc Bằng cùng các đại thần đứng ra ủng hộ, đưa Giản Tu công lên làm vua và sau này tôn là Tương Dực đế.
Tuy nhiên, kỳ vọng của Lương Đắc Bằng cùng những quần thần, quý tộc chung suy nghĩ với ông về một vị tân vương anh minh đã không được đáp ứng. Tương Dực đế sau thời gian đầu lên ngôi “ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt” đã trượt dài vào con đường chơi bời vô độ, “xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên”3.
Chán nản trước thời cuộc, lấy cớ thân mẫu qua đời, Lương Đắc Bằng đã xin về quê chịu tang mẹ và dự định hưu dưỡng ở quê nhà làm nghề dạy học. Đoán được suy nghĩ của Lương Đắc Bằng, người đứng đầu nhà Lê Sơ đã ra chiếu chỉ triệu hồi ông về triều. Mùa đông tháng 10 năm Canh Ngọ (1510), vua Lê khôi phục cho Lương Đắc Bằng chức Lại bộ Tả Thị lang kiêm Đông các Học sĩ, Nhập thị kinh diên. Lương Đắc Bằng không những từ chối chức tước vua ban mà nhân cơ hội này, ông đã dâng lên Tương Dực đế một bản kế sách trị quốc gồm 14 điểm được gọi là Trị bình thập tứ sách.
Ông dẫn trích xưa “Bậc thánh nhân thuở trước, không vì thiên hạ đã trị mà lơ là việc cảnh giác ngăn ngừa, người hiền thần đời xưa không vì vua mình đã thánh mà quên lãng niềm khuyên răn, can gián” để khẳng định: “Đế Thuấn nghe lời khuyên mà răn ngừa những việc đáng răn, do đó đã trở thành bậc đại thánh… Văn Đế nghe lời khuyên mà lo nghĩ việc đáng lo, do đó đã trở nên bậc hiền nhân”.
Theo Lương Đắc Bằng, kể từ khi Lê Tương Dực lên ngôi, “hoà khí chưa thuận, can qua chưa dứt, kỷ cương triều đình chưa dựng đặt, việc quân, việc nước chưa sửa sang; tai dị xảy ra luôn, sợ đạo trời chưa thuận, núi đá bị sụt lở, e đạo đất chưa yên”. Trước thực tế đó, ông “mỗi khi nghĩ tới việc ngày nay thì suốt đêm không ngủ, đến bữa không ăn, tấm lòng khuyển mã trung thành không sao nguôi được”.
Trị bình thập tứ sách của Lương Đắc Bằng là những đúc kết của ông nhằm ổn định tình hình đất nước trong bối cảnh triều đình rối loạn, vua quan ăn chơi sa đọa, sưu cao, thuế nặng, nhân dân mất niềm tin. 14 kế sách của ông, đó là:
Phải cảnh giác, răn ngừa để chấm dứt tai biến,
Dốc lòng hiếu thảo để khuyến khích lòng trung hậu,
Xa thanh sắc để làm chân chính gốc của tâm,
Đuổi tà nịnh để làm trong sạch ngọn nguồn muôn việc,
Dè dặt trao quan tước để thận trọng việc khuyến khích, răn đe,
Tuyển bổ công bằng để đường làm quan trong sạch,
Tiết kiệm tiêu dùng để khuyến khích phong tục kiêm phác,
Khen thưởng người tiết nghĩa để coi trọng đạo cương thường,
Cấm hối lộ để trừ bỏ thói tham ô,
Sửa sang võ bị để vững thế “thành đồng hào nóng”,
Lựa chọn quan can gián để gây khí thế dám nói,
Nới nhẹ việc lao dịch để thoả lòng mong đợi của dân,
Hiệu lệnh phải tín thực để thống nhất ý chí của bốn phương,
Luật pháp, chế độ phải thận trọng để mở nền thịnh trị thái bình.4
Những kế sách trên đây, xin bệ hạ soi xét. Thần lại nghe cổ ngữ có câu:
"Lời nói của kẻ cắt cỏ, kiếm củi, thánh nhân cùng cân nhắc lựa dùng"
Thần xin bệ hạ đừng cho những lời của thần là vu khoát, xin lựa chọn mà thi hành, răn những điều đáng răn, lo những điều đáng lo, may ra đạo trời có thể thuận, đạo đất có thể yên, đạo người có thể ổn, có thể đạt đến thái bình". Vua nghe theo.
Dẫu Trị bình thập tứ sách của Lương Đắc Bằng được khen ngợi nhưng dường như vua Lê Tương Dực đã không áp dụng vào thực tiễn (Đại Việt sử ký toàn thư chép là “vua nghe theo”; Lịch triều hiến chương loại chí viết “vua khen ngợi và nhận lời”, tuy nhiên, theo Nam sử: “Mười bốn kế sách trình lên không được dùng một kế sách nào”5. Khi Lê Chiêu Tông lên ngôi, chính trường nhà Lê Sơ cũng không cho thấy dấu hiệu khởi sắc. Trước tình hình ấy, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê dạy học. Ông là thày dạy của nhiều danh sỹ nổi tiếng sau này như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (quê Hải Dương), Tiến sĩ Đinh Bạt Tụy (quê Nghệ An), Bảng nhãn Nguyễn Mẫu Đối, Tiến sĩ Nguyễn Thừa Hưu, Hoàng giáp Lại Kim Bảng…
NGUYỄN BỈNH KHIÊM - NGƯỜI HỌC TRÒ XUẤT SẮC CỦA LƯƠNG ĐẮC BẰNG
Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nên không quản ngại xa xôi từ Hải Dương đến tận làng Hội Triều ở Thanh Hóa để theo học. Dù Lương Đắc Bằng có nhiều "trò giỏi" và gia thế theo học, nhưng với sự thông minh sáng dạ lại chăm chỉ của mình, chẳng mấy chốc Nguyễn Bỉnh Khiêm trở thành trò giỏi nhất của thầy hay. Không chỉ dạy chữ nghĩa, Lương Đắc Bằng còn dạy cả đạo lý cho học trò, ông rất ân cần tỉ mỉ.
Là người tinh thông lý số, Lương Đắc Bằng cũng thấy trước được tương lai của Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này, vì thế ông còn dạy thêm cả lý học. Sau này ông trao cho Nguyễn Bỉnh Khiêm "Kinh Dịch" và "Thái Ất Thần Kinh" và căn dặn đây là sách quý, có thể theo đến cảnh giới cao thâm. Trò giỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này vượt thầy hay Lương Đắc Bằng, trở thành nhà tiên tri nổi tiếng nhất sử Việt.
Thái Ất Thần Kinh là tác phẩm nghiên cứu mối quan hệ giữa Thiên văn – Địa lý – Sinh mệnh (Thiên - Địa - Nhân). Nó thuộc khoa học dự báo, trình bày dưới hình thức vận hành của các sao và được khái quát hoá thành các “Thần”. Thái Ất Thần Kinh có nguồn gốc từ rất xa xưa và được phát triển bởi những nghiên cứu chiêm tinh học từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên ở cả các quốc gia Âu cũng như Á. Con người đã cố gắng tìm hiểu mối quan hệ giữa những biến đổi Thiên văn – Thời tiết – Dịch bệnh – Mùa màng và các biến động xã hội để đưa ra những nhận xét, dự báo thời cuộc.
Sách “Nam Hải dị nhân liệt truyện” của Phan Kế Bính đã kể câu truyện về khả năng tinh thông lý số của Nguyên Bỉnh Khiêm như sau: “Phàm các việc tai, tường, họa, phúc, cùng là ngày mưa, ngày nắng, việc gì cũng biết trước. Có một người học-trò tên là Bùi-Sinh, ngài bảo người ấy về sau tất phú quí. Đến khi Bùi-Sinh gần 70 tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đoán số mình sai. Ngài cười không nói gì. Một hôm ngài bảo Bùi-Sinh mượn lấy 10 chiếc thuyền đánh cá, cho bơi ra bến Hồng-đàm bể Vạn-ninh, dặn đến giờ ấy..... hễ gặp cái gì thu lấy đem về, chắc được thưởng to. Bùi-Sinh tuân nhời, quả nhiên gặp một bà cụ già, áo mũ chỉnh tề, thuyền bạt phong đến đấy. Bùi-Sinh đem về phụng dưỡng coi như mẹ. Được vài hôm, có quan Tổng-đốc Quảng-đông sai người sang nói với vua rằng: “Thái-phu-nhân chơi bể bạt phong, xem thiên-văn thì thấy ở phương nam, xin nhà vua vì nghĩa láng giềng mà tìm giúp cho”. Ngài sai Bùi-Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước là Thao quận-công”.
Lương Đắc Bằng muộn đường con cái, mãi đến ngoài 50 tuổi thì một người thiếp của ông là Hoàng Thị Thục mới có mang. Lúc đó ông đau yếu do tuổi cao, biết mình không qua khỏi liền dặn vợ đặt tên con là Lương Hữu Khánh, sau này nhờ học trò là Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy học cho nó, rồi sau đấy ông qua đời. Khi ông mất học trò khắp nơi về dự tang rất đông, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở lại làng Hội Triều chịu tang thầy 3 năm mới đi.
Dù có tài năng hơn người nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không ra thi cử, suốt hơn 9 khoa thi ông đều không tham dự. Dường như ông đã biết trước nhà Lê đang suy vong nên ông cũng không tham dự, vì làm quan trong thời điểm đó cũng chẳng giúp được gì cho giang sơn xã tắc.Trong năm Quảng-thiệu (Lê Chiêu-tôn), có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở ẩn một chỗ, không muốn cầu tiếng tăm với đời. Bấy giờ, ông tính số Thái-ất, biết cơ nhà Lê lại khôi phục được, nên có bài thơ cảm hứng:
Non sông nào phải buổi bình-thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười!
Cá vực, chim rừng ai khiến đuổi?
Núi xương, sông tuyết thảm đầy nơi!
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ.
Thú dữ nên phòng lúc cắn người.
Ngán ngẩn việc đời chi nói nữa,
Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi!
Đến khi nhà Mạc thay nhà Lê, 2 kỳ thi đầu Nguyễn Bỉnh Khiêm đều bỏ qua không dự. Đến năm 1535 thời vua Mạc Thái Tông, lúc nhà Mạc thịnh trị nhất ông mới đi thi và đỗ ngay Trạng nguyên khi đã 45 tuổi. Ông được phong làm Đông Các hiệu thư (chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình), sau đó kinh qua các chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ.
Nhưng giai đoạn làm quan phụng sự xã tắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ có được 8 năm. Năm 1540 Mạc Thái Tông mất, con trưởng là Mạc Phúc Hải lên ngôi lúc còn rất nhỏ, vì thế mà quyền thần thao túng triều chính. Học theo người thầy Lương Đắc Bằng, ông đã dâng sớ lên Vua đề nghị trị tội 18 lộng thần, Vua còn nhỏ bị chi phối nên không nghe theo. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền xin từ quan về quê vào năm 1542. Đến năm 1544 nhà Mạc lại cho mời ông vào Triều. Ông làm quan đến chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công, vua Mạc xem ông như quân sư, người đời còn tôn ông là “Trụ kình thiên”, có nghĩa là “Cột chống trời”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy rằng nhà Mạc ngày càng suy tàn, cố gắng cũng không sao thay đổi được, ông ít khi ở kinh thành mà chủ yếu ở quê. Nhưng đặc biệt các việc lớn thì các bậc vua chúa thời này đều đến hỏi ông, ông trở thành người quyết định thế cuộc lúc đó.
Khi vận nước rối bời, vua Mạc Mậu Hợp đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Trình đã đáp rằng: "Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời". 7 năm sau vua Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi Thăng Long, nhớ lời dặn cụ Trạng, liền về đất Cao Bằng, quả nhiên giữ thêm được 96 năm nữa.
Khi Nguyễn Hoàng lo lắng bị chúa Trịnh sát hại bèn hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Trình không trả lời chỉ nói rằng: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân", nghĩa là: "Hoành sơn một dãy, dung thân ngàn đời". Nguyễn Hoàng liền đến phía nam dãy Hoàng Sơn chính là vùng đất Thanh Hóa, xây dựng cát cứ lập ra nhà Nguyễn sau này.
Khi vua Lê Trung Tông mất, Trịnh Kiểm muốn nhân cơ hội này chiếm ngôi Vua của nhà Lê, bèn hỏi ý kiến Phùng Khắc Khoan. Nhưng Phùng Khắc Khoan cũng không biết nên làm thế nào, bèn phái người bí mật hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng "Năm nay thóc giống không tốt, chúng bay nên tìm thóc cũ mà gieo mạ", "Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản". Phùng Khắc Khoan hiểu ý, nói với chúa Trịnh rằng phải thờ vua Lê thì mới được lâu dài.
Sau này con cháu nhà Trịnh nhiều người muốn cướp ngôi nhà Lê, tìm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ông đều nói rằng "Lê tồn, Trịnh tại; Lê bại, Trịnh vong", khiến chúa Trịnh không dám cướp ngôi vua Lê. Đến đời vua cuối cùng của nhà Lê là Lê Chiêu Thống mất ngôi thì nhà Trịnh cũng bị diệt.
Sau khi Bảng nhãn Lương Đắc Bằng mất, vợ ông là bà Hoàng Thị Thục sinh con trai, nghe lời chồng đặt tên con là Lương Hữu Khánh. Khi con lớn lên bà theo lời căn dặn trước của chồng cho theo học với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lương Hữu Khánh được thầy xem như người nhà và cho ăn học tử tế.
"Trò giỏi" gặp được "thầy hay" nên Lương Hữu Khánh thành đạt rất nhanh, năm 12 tuổi đã đỗ kỳ thi Hương, sau này thi Hội thì đỗ cao thứ nhì, nhưng ông không dự kỳ thi Đình để làm quan cho nhà Mạc, mà chọn vào Thanh Hóa phò vua Lê. Lương Hữu Khánh lập công lớn khôi phục nhà Lê Trung Hưng. Lấy dân làm trọng, ông phù vua Lê thay đổi cục diện Nam Bắc Triều kéo dài.
VÀI LỜI NHẬN XÉT
Cuộc đời và sự nghiệp của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã để lại nhiều dấu ấn của một quan lại phong kiến tài năng mẫu mực, một người thầy tận tâm vì nước, vì dân. Đặc biệt 14 kế sách trị nước của ông đã để lại nhiều bài học quý không chỉ có giá trị ở thời điểm cuối triều đại của nhà Lê Sơ mà phần nào đó là chân lý cho bất kể triều đại nào. Một số nhận xét có thể đúc rút ra từ những kế sách trị nước của ông, đó là:
1. Lương Đắc Bằng cùng với Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn khảng khái, đặt lợi ích chung nên trên lợi ích riêng; coi trọng việc an dân, luôn tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân (không phân biệt thứ hạng kể cả đó là người cắt cỏ, kiếm củi), quan tâm đến lợi ích của nhân dân, thực hành lấy dân làm gốc. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng viết: “ Cổ lai quốc dĩ dân vi bản/Đắc quốc ưng tri tại đắc dân”
2. Trong trị vì đất nước, việc bổ nhiệm các chức vụ cũng cần thận trọng, công bằng, đảm bảo đường làm quan trong sạch, liêm chính; mạnh dạn sử dụng người trung thực, dám nói, dám đấu tranh, thực hành tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí, tham nhũng;
3. Coi trọng việc đoàn kết, thống nhất; xây dựng thể chế, luật pháp nghiêm minh, rõ ràng; khen thưởng người tiết nghĩa; bảo đảm an ninh, giữ gìn biên cương bờ cõi.
4. Đào tạo và sử dụng nhân tài cho đất nước đã được các triều đại phong kiến Việt Nam hết sức coi trọng. Người tài được tuyển chọn kỹ càng, được trọng dụng và bổ nhiệm vị trí xứng đáng trong triều đình, tham gia vào công việc điều hành đất nước.
Có thể nói những kế sách trị nước của Lương Đắc Bằng từ thế kỷ thứ XVI vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay./.
TS. Phạm Hữu Thư
Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Hải Phòng
(ĐT: 0913242319; email: [email protected])
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
Phan Kế Bính, Nam Hải dị nhân liệt truyện, NXB Trẻ, NXB Hồng Bàng
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.
Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, 2007.
Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên (1272 - 1697), Đại Việt Sử ký toàn thư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch (1985 - 1992), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.
Vũ Ngọc Khánh (2008), Từ điển Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin năm 2008.
Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Từ Khôi, Lương Đắc Bằng-Thức giả thời loạn (https://daidoanket.vn/luong-dac-bang-thuc-gia-thoi-loan-10090273.html)
Lê Minh Quốc (2009), Những nhà cải cách Việt Nam, Nxb Trẻ năm 2009.
Lê Văn Toan, Lương Đắc Bằng, danh Nho đạo nghĩa thanh liêm, Tạp chí Hán Nôm, Số 3, 2011.
1 Theo Từ Khôi (https://daidoanket.vn/luong-dac-bang-thuc-gia-thoi-loan-10090273.html)
2 Đại Việt sử ký toàn thư, tr.521
3 Sđd, tr.530
4 Đại Việt sử ký toàn thư, tr.530
5Lê Văn Toan, Lương Đắc Bằng danh Nho đạo nghĩa thanh liêm, Tạp chí Hán Nôm, Số 3, 2011, Tr.24 - 28).
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn