Nhà sử học Ngô Đăng Lợi
Hội Sử học Việt Nam
Bà nội, bà ngoại tôi đều là Phật tử chùa Đồng Bình, làng Đắc Lộc, xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy. Vì thế từ khi còn tấm bé, tôi thường theo các cụ lên chùa làng lễ Phật. Tuy chưa hiểu biết gì về đạo Phật, nhưng chùa cảnh thanh tịnh, tượng pháp to đẹp, uy nghi nghiêm trang do thợ làng Hà Cầu, huyện Vĩnh Bảo tạo tác nên bọn trẻ chúng tôi đều kính sợ. Lễ Vu Lan báo hiếu hàng năm, phường chèo làng thường diễn vở chèo báo hiếu, tích Phá ngục huyết hồ làm người xem vô cùng xúc động, nhiều người che mặt khóc, khen những người con hiếu thảo, chê bai kẻ bất hiếu, bất mục. Khi theo học trường sơ học, tiểu học vào dịp nghỉ hè, nghỉ lễ tôi thường đến các chùa ở gần như: Chùa Cồn làng Quần Mục, chùa Đông, chùa Đoài làng Đại Lộc đều thuộc xã Đại Hợp, chùa Bảng làng Tiểu Bàng nay thuộc phường Bàng La quận Đồ Sơn, chùa Nhân làng Nhân Trai, chùa Chè làng Trà Phương, chùa Mõ xã Ngũ Phúc đều thuộc phủ Kiến Thụy. Về giáo lý nhà Phật, ngày ấy tôi và bạn bè cùng trang lứa chưa hiểu biết gì, nhưng lời Phật dạy khuyến thiện, trừng ác thì cũng hiểu vì ở các chùa đều có tượng hai vị Hộ pháp to lớn dữ dằn gọi là ông Thiện, ông Ác sẵn sàng trừng trị kẻ ác, phù hộ người tốt. Khi học trung học Chuyên khoa ban Văn - Triết tôi cũng ít biết nhiều về Tam giáo Phật Nho Lão, về thuyết Tam giáo đồng nguyên. Cha chú tôi thường đàm đạo câu: Danh giáo hữu tam, Phật cư vi nhất; Phúc địa hữu bát, tự cư vi tiên (tôn giáo nổi tiếng có ba Phật giáo ở vị trí thứ nhất, đất phúc có tám. Chùa xếp hàng đầu). Theo chương trình và sách giáo khoa tôi cũng được học chút ít về triết học phương Tây. Khi học khoa văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi được học và biết đạo Phật du nhập nước ta khá sớm, trước cả Trung Quốc, từ thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã trở thành quốc giáo giữ vị trí độc tôn. Đặc biệt Hoàng đế Trần Nhân Tông (1258-1308) anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa sau khi đánh thắng đế quốc Nguyên - Mông đã thoái vị vào núi Yên Tử tu Phật, lập nên Thiền phái Trúc lâm nổi tiếng. Anh trai con nhà bác Hưng Ninh vương Trần Tung (1230-1291) sau khi hoàn thành sứ mệnh đánh giặc đã lui về thái ấp Dưỡng Chân (nay là thôn Dưỡng Chính, xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên) chuyên nghiên cứu đạo Phật, được Tam tổ Trúc Lâm tôn là thầy. Khi phát hiện di tích này, chúng tôi đã báo cáo với Hội Sử học Việt Nam, Hội đã cùng với nhà sử học Dương Trung Quốc - Tổng biên tập tạp chí Xưa & Nay đúc tượng đồng Thượng Sĩ tặng nhân dân và chính quyền xã. Năm 1967, tôi công tác ở Sở Giáo dục Hải Phòng, cơ quan sơ tán về thôn Đông Nham, xã Quốc Tuấn, huyện An Lão có cơ duyên được gặp các vị lãnh đạo Thường trực thành hội Phật giáo Hải Phòng cùng sơ tán về chùa làng này. Nhà sư và dân làng cho biết cụ Trí (Hải), cụ Kim (Kim Cương Tử) hiện đang ở chùa. Tôi và nhà sử học Trịnh Ngọc Viên, phụ trách môn lịch sử của Sở đến xin được hầu chuyện hai cụ. Hai cụ niềm nở đón tiếp và góp ý môn lịch sử rất quan trọng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhân cách đạo đức. Bác Hồ đã dạy: Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Hai cụ phàn nàn học sinh bây giờ ít thích học sử, lỗi tại chương trình, tại cách dạy công thức khuôn sáo chứ không phải lỗi của các trò. Hai chúng tôi thấy hai cụ là bậc nhân sĩ trí thức yêu nước, yêu dân đạo cao đức trọng nên rất kính phục, mạnh dạn xin các cụ khi rảnh rỗi cho được gặp, được giáo huấn. Hai cụ vui vẻ niềm nở nhận lời. Khi đế quốc thua phải ngừng đánh phá miền Bắc, các cơ quan nhân dân được trở lại thành phố, tôi đến cơ quan Thành hội Phật giáo ở chùa Nam Hải phố Cát Dài, vào phòng ở của cụ Trí Hải thấy có 1 giường cá nhân, 1 bàn làm việc và 1 máy ngữ, còn toàn sách là sách thuộc loại quý hiếm đủ nhiều thứ tiếng Hán nôm, Pháp ngữ, Anh ngữ, nhiều bản thảo Cụ tự đánh máy. Ở lối đi 2 bên vào chùa, Cụ tận dụng trồng rau, Cụ cho biết nông dân hiện dùng nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu làm hại hoa màu, hại sức khỏe, Cụ thuê mướn 1 sào ruộng để cấy lúa, lấy thóc làm gạo lứt để ăn. Cả rau và lúa đều bón phân hữu cơ, phân xanh, không bón phân hóa học, không phun thuốc hóa học trừ sâu. Cụ cười bảo: “Phật tổ dạy bất tác, bất thực (không làm không được ăn), tôi trồng rau để có thức ăn, trồng hoa để có hoa cúng Phật, hàng ngày đi lại chăm lo, tưới tắm cũng là một cách tập thể dục.” Thấy cụ cao tuổi, làm việc nhiều tôi tranh thủ hỏi những vấn đề cốt yếu với câu hỏi đã chuẩn bị kỹ. Tôi mạnh dạn đề nghị nhờ cụ giúp việc sưu tầm thư tịch về Phật giáo nước ta, các trước tác của các nhà tu Phật am tường kinh sách, nhất là sách của Tam Tổ Trúc Lâm, của Tuệ Tung thượng sĩ, của Ngô Thì Nhậm - người làng Tả Thanh Oai, Hà Đông đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1775) có làm quan với nhà Lê và nhà Tây Sơn. Khi giữ chức Đốc Đồng tỉnh Lạng Sơn, ông đã chăm lo việc tôn tạo chùa Đoàn Thành, sửa sang tô điểm động Nhị Thanh, truyền bá đạo Phật. Ông sáng tác khá nhiều trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tác phẩm nổi tiếng Trúc Lâm tông chi nguyên thanh rất có giá trị, đương thời suy tôn ông là Trúc Lâm đệ tứ tổ. Cụ cũng giúp tôi sưu tầm một số sách quý của Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308), hiện tủ sách gia đình tôi còn giữ được vài cuốn. Thấy tôi sa đà quá, Cụ dạy Phật kinh phong phú uyên áo lắm, nhiều bậc cao tăng nhiều cư sĩ bác học nhiều thế hệ đã nghiên cứu tìm tòi học hỏi tập hợp trong ba bộ kinh lớn: Kinh - Luận - Luật, ấn tống bằng nhiều thứ tiếng: Pali, Hán, Pháp, Nhật, Thái… Các nhà giáo bậc giáo dục phổ thông cần học hỏi nghiên cứu một số vấn đề cốt yếu như:
- Bát Chính Đạo (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính mệnh, chính nghiệp, chính tinh tiến, chính niệm, chính định).
- Lục hòa (thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tụ, lợi hòa đồng quân).
- Ngũ giới: Sát (đạo - trộm cắp), dâm (trá, nói dối), tửu, rượu chè, thuốc sái.
- Lục độ: Bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tịnh tiến, trí tuệ, thiền định.
Cụ bảo Phật tử nước ta phòng đông ít được học hành, nếu dùng nhiều từ ngữ Hán Việt thì không hiểu, có khi hiểu nhầm nên diễn đạt nôm na dễ hiểu, dễ nhớ, nhất là dùng tục ngữ, ca dao. Cụ khi soạn sách Phật học thường làm như thế. Muốn giáo hóa khuyếch trương đạo Phật cần phải có tổ chức bộ máy. Chính cụ là người đề xuất lập hội Chấn hưng Phật giáo, soạn thảo điều lệ, chương trình hoạt động. Nhưng lúc đầu gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong cả nội bộ, có một Hòa thượng cực kỳ phản đối nhưng với tài trí Cụ đã tìm cách “lách” luật bằng cách tổ chức đoàn Lục hòa tịnh tiến nên không phải xin phép mà vẫn hoạt động công khai có kết quả. Khi thời cơ đến, Cụ mời một số vị quan to Nam triều, công chức cao cấp ở phủ toàn quyền Đông Dương, ở phủ Thống sứ Bắc Kỳ cùng nhiều nhân sĩ tri thức có uy tín tham gia. Chương trình hoạt động theo điều lệ, chương trình của Trung ương hội. Khi đã có tổ chức, bộ máy cần phải tuyên truyền, quảng bá. Cụ cùng các cử sĩ thiều chức Nguyễn Hữu Kha, học giả Nguyễn Văn Tố, Lê Dư, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn Tĩnh,… Tháng 12/1935, báo Đuốc Tuệ do tổ Bằng Sở làm chủ bút, tháng 7/1936 lập nhà in Đuốc Tuệ. Năm 1932, Cụ tham gia lập Phật học tùng thư… Nhà báo chí, nhà xuất bản đã tích cực góp phần khuyếch trương chính giáo, tà giáo chống mê tín, dị đoan đồng bóng bói toán, trò trừ tà sát quỷ.
Cụ dồn nhiều tâm sức trí tuệ để sửa chữa làm chùa, tô tượng đúc chuông trong đó có chùa Quán Sứ, Hà Nội; khu Tùng Lâm, Yên Tử để làm nơi tu dưỡng và làm trường Cao đẳng Phật học sau này. Năm 1941, lập trường Phật học Bồ Đề (Gia Lâm) cho ni chúng. Ở Hải Phòng, tháng 8 năm 1954 Cụ làm chùa Nam Hải ở phố Cát Dài, lúc này đối phương tổ chức dụ dỗ, cưỡng bách di cư vào miền Nam nên kinh phí, vật tư, nhân lực thiếu thốn đủ mọi bề. Nhưng với tài trí, uy tín Cụ đã mua chịu xi măng, gạch gỗ chỉ có tiền công thợ phải trả ngay, Cụ đã vay tạm bà đồng Năm thủ nhang đền Tứ phủ phố Đền Nghè. Hòa thượng còn vận động các nhà hảo tâm góp tiền mua 37 mẫu ruộng ở thông An Ninh, huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình. Cuối năm 1944, Cụ đại diện hội Phật giáo Bắc Kỳ cùng các hội Quảng Thiên, Tế Sinh và các báo Trung Bắc tân văn, Ngọ báo… lập ban cứu tế mùa đông, chủ yếu giúp đồng bào thiếu quần áo. Trận đói lớn tháng 3 năm Ất Dậu (1945) làm hơn 2 triệu đồng bào Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ chết thê thảm, Cụ lập Tổng Cứu tế mời học giả Nguyễn Văn Tố làm việc ở Pháp quốc Viễn Đông học viện làm Hội trưởng quyên góp thóc gạo cứu đói, có lần bị cảnh sát Nhật tình nghi bắt giam tại chùa Đoàn Thành. Nhưng Cụ không sợ, không nản chí, chỉ lo sao cứu đói cho đồng bào. Cách mạng tháng 8/1945 thành công, Chính phủ cụ Hồ lập bộ Cứu tế xã hội do học giả Nguyễn Văn Tố làm Bộ trưởng, Cụ được mời làm cố vấn. Tháng 3/1951, Cụ tham gia thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam được bầu làm Trị sự trưởng, giúp Hội trưởng là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.
Trên đây, chúng tôi chỉ lược thuật công đức của Cụ trên các mặt hoạt động Phật sự, Văn hóa xã hội… chắc chắn không đầy đủ, nhưng cũng giúp được hậu thế chúng ta thấy được công lao cống hiến lớn lao của Cụ với tổ quốc, đồng bào. Tôi may mắn có nhiều dịp hầu chuyện Hòa thượng, được cùng Thường trực Ban Trị sự Thành hội Phật giáo đến thăm quê hương, những tự viện tổ đình, cùng nhiều cơ sở văn hóa xã hội Hòa thượng trụ trì, xây dựng, đến đâu nhân dân Phật tử đều nhớ công lao đức độ, đều tự hào về người con Phật của mình. Ni sư Tiến sĩ Mạn Đà Na ở Paris, Pháp ngưỡng mộ cũng tìm về chùa Nam Hải, Hải Phòng bái yết.
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày viên tịch Đức Trưởng lão Sa môn Thích Trí Hải (30/6/1979), Thành hội Phật giáo Hải Phòng - Liên hiệp các Hội Khoa học & Kỹ thuật Hải Phòng và Sơn môn Phật giáo Tế Xuyên - Hà Nam có sáng kiến tổ chức cuộc tọa đàm khoa học: “Sa môn Thích Trí Hải - Bậc danh tăng lớn của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX, một tấm gương đức hạnh sống mãi trong lòng đạo Phật và dân tộc.”
Là nguời nghiên cứu lịch sử địa phương, là Phật tử tôi nhiệt liệt tán dương việc làm đầy đạo nghĩa này và tha thiết mong ở tỉnh Hà Nam quê hương và thủ đô Hà Nội là nơi hiện lưu nhiều di tích hoạt động Phật sự, văn hóa xã hội của Ngài nên có đường phố hay công viên mang tên Ngài.
Nam mô ma ha sa tì kheo Bồ tát giới, pháp húy Thích Thanh Thao, hiệu Trị Hải tôn sư tác đại chứng minh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tuyển tập Sa môn Thích Trí Hải, NXB Tôn giáo, 2000.
2. Trần Trọng Kim - Việt Nam sử lược, NXB Tân Việt - Sài Gòn, 1949.
3. Thành hội Phật giáo Hải Phòng, Tuyển tập Sa môn Thích Trí Hải tập I, NXB Tôn Giáo, 2009.
4. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phật giáo xứ Đông - Phật giáo xứ Na - Phật giáo xứ Bắc do Hội Thành hội Phật giáo Hải Phòng - Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng ấn hành.
Nguồn: Bài tham luận in trong:
“Kỷ yếu toạ đàm khoa học Sa Môn Thích Trí Hải,
một Danh Tăng lớn của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX,
một tấm gương đạo hạnh sống mãi trong lòng đạo pháp dân tộc”.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn