Phật giáo xứ Đông

Thứ ba - 27/08/2024 07:50
Khi nói đến Phật giáo Xứ Đông trước hết phải xác định địa dư khi Xứ Đông tồn tại. Xứ ra đời năm Hồng Đức 21 ( 1490) gọi là xứ Hải Dương, tức xứ ở phía Đông kinh đô Thăng Long, gọi tắt là Xứ Đông. Đến triều Mạc đổi xứ thành trấn, năm Minh Mệnh 12 (1831), trấn Hải Dương đổi thành tỉnh Hải Dương.
phat giao xu dong
Nhà sử học Tăng Bá Hoành
Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Hải Dương

Khi nói đến Phật giáo Xứ Đông trước hết phải xác định địa dư khi Xứ Đông tồn tại. Xứ ra đời năm Hồng Đức 21 ( 1490) gọi là xứ Hải Dương, tức xứ ở phía Đông kinh đô Thăng Long, gọi tắt là Xứ Đông. Đến triều Mạc đổi xứ thành trấn, năm Minh Mệnh 12 (1831), trấn Hải Dương đổi thành tỉnh Hải Dương. Tỉnh khi đó rất lớn, gồm căn bản địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay và thành phố Hải Phòng (trừ các đảo thuộc An Bang), huyện Đông Triêu và Uông Bí, nay thuộc Quảng Ninh, 15 xã thuộc huyện Lương Tài (Bắc Ninh), huyện Mỹ Hào và một phần huyện Yên Mỹ và Ân Thị tỉnh Hưng Yên hiện nay. Như vậy, Xứ Đông cuối thời Lê sơ (cuối TK XV ?) và tỉnh Đông đầu tiên triều Nguyễn (đầu TK XIX) rộng trên 2 lần diện tích Hải Dương hiện nay, phía Tây đến Bần Yên nhân, Đông giáp biển, tận Đồ Sơn, Bắc vượt qua đình Yên Tử, Nam đến Cầu Lực Điền, huyện Yên Mỹ. Khi nói về Phật giáo Xứ Đông phải nói đến những gì đã diễn ra tại không gian nfay.
Phật giáo ra đời tại Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, do Thích Ca Mâu Ni khởi xướng. Tôn giáo này phát triển khá nhanh, rồi tràn sang các nước Đông á và Đông Nam Á từ những thế kỷ trước và đầu công nguyên, trong đó có Đại Việt.
Phật giáo chia thành hai nhánh, nhánh phía Nam gọi là Tiểu thừa hay Phật giáo Nam phương, truyền vào Việt Nam qua Nam bộ rồi vào phía Bắc qua Hải Phòng; nhánh Bắc phương, gọi là Đại thừa, truyền sang Trung Quốc đã bị Hán hóa ít nhiều khi vào Việt Nam ở phía bắc, khoảng thế kỷ thứ III. Phật giáo Xứ Đông căn bản thuộc Đại thừa.
Cùng với Phật giáo, Nho giáo (TK VI TCN) và Lão giáo (TK IV TCN) ra đời từ đất nước Trung Hoa và cũng sớm có mặt ở Việt Nam. Nếu xét về hiện tượng cá biệt có thể thấy những tôn giáo này đã vào nước ta khá sớm, ví dụ Lý Ông Trọng, người Từ Liêm (Hà Nội), làm quan thời Tần Thủy Hoàng ở cuối thể ký thứ III. Trước công nguyên, là người rất giỏi Hán văn, mà Hán văn thì gắn liền với Nho giáo. Theo truyện Tử Đồng Tiên, đắc đạo, như vậy, từ thế kỷ thứ III, trước công nguyên, Nho và Đạo giáo đã có sự hòa nhập. Năm 1996, khi khai quật mộ hán ở thông Vũ Xã, xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, chúng tôi đã phát hiện một tấm bia mộ chí ghi trên đất nung, có niên hiệu Vĩnh Kiến ngũ niên, tức năm 130 theo Dương lịch, như vậy chữ Hán đã hiện diện ở bộ Dương Tuyền (Xứ Đông) từ đầu thế kỷ thứ II, không chờ đến Sĩ Nhiếp mở trường dạy Hán văn. Nhưng những sự kiện trên chỉ là cá biệt, phải đến thế kỷ III, các học giả mới có thể thống nhất ý kiến về Nho, Phật, Lão đã hành đạo trên đất nước ta vơi tư cách là một tôn giáo.
Trải qua gần hai nghìn năm, “Phật giáo ở Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến từ ngoại lai đến bản địa, từ một vùng đến cả nước, từ đơn sơ đến sâu sắc và bề thế” (Lịch sử Phật giáo VN). Nó cũng thăng trầm qua thời gian để tồn tại và phát triển đến nay. Cùng với phật giáo, còn có Nho giáo và Lão giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam  cùng thời. Ở Việt Nam, ba tôn giáo này không mâu thuẫn nhau mà bổ trợ cho nhau trong hoạt động tôn giáo, hòa nhập với tín ngưỡng bản địa, tạo nên nét đặc trưng của tôn giáo Việt Nam là Tam giáo đồng nguyên, tức những tôn giáo trên đã được Việt hóa trên một số lĩnh vực, có khi ba tôn giáo này hiện diện trong một ngôi chùa ở mức độ khác nhau; tuy nhiên, Phật giáo vẫn là căn bản.
Sau kháng chiến chống Nguyên thắng lợi, những người lãnh đạo quốc gia Đại Việt tự tin và quật khởi, cần một tôn giáo và trường phái tư tưởng riêng phù hợp với văn hóa dân tộc, bởi đầu thế kỷ XIV, Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam ra đời, do Phật hoàng Trần Nhân Tông xác lập, với chủ trương “Cư trần lạc đạo”, tạo cho Phật giáo Việt Nam một sinh khí mới, vừa mang tính bản địa, vừa dễ tu hành và nhập thế. Nếu Thái tử Thích Ca Mâu Ni giác đạo dưới gốc cây Bồ đề ở Ấn Độ, thì ở Việt Nam có Phật Hoàng Trần Nhân Tông giác đạo dưới rừng trúc ở Ngọa Vân (Đông Triều) của Việt Nam. Đầu thế kỷ  XVI, Thiên chúa giáo du nhập vào Việt Nam, cụ thể là Kẻ Sặt XỨ Đông cũng được nhân dân ta đón nhận một cách hòa bình, tôn giáo này phát triển mạnh ở thế kỷ XĨ và có trên 100 nhà thờ tại địa bàn tỉnh. Thời vua Tự Đức trị vì, có vài hiện tượng gọi là tả đạo, xét về bản chất, đây là việc làm nhằm ngăn chặn họa xâm lăng, không phải xung đột tôn giáo. Ở thế kỷ thứ XVII lại xuất hiện phái thiền Tào Động, một nhánh của Đại thừa, du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc. Người có công đầu trong việc dựng thiền phái ở Việt Nam là nhà sư Thủy Nguyên (1636 – 1704) mà tổ đình lại là chùa Thánh Quang, thuộc làm Nhẫm Dương của Xứ Đông, nay thuộc huyện Kinh Môn (Hải Dương). Ảnh hưởng của phái Tào Động không lớn nhưng làm phong phú thêm cho Phật giáo Xứ Đông.
Phật giáo vào Việt Nam được quan triều và nhân dân hoan hỷ đón nhận, là một tôn giáo nhập thế, phù hợp với tâm lý người Việt, làm phong phú thuần phong mỹ tục, góp phần xây dựng nền văn hiến và bảo vệ tổ quốc. Ở triều đình, có khuông thiền sư Ngô Chân Lưu, với danh xưng đó đủ biết các Quốc sư có ý thức v tổ quốc của mình như thế nào. Tại cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), còn cột kinh khắc dựng từ năm 1054 do nhà vua chỉ đạo thực hiện là bằng chứng về sự quan tâm của triều đình đương thời với phật giáo.
Triều Lý ra đời có sự đóng góp tích cực của các thiền sư, đây cũng là triều đại để lại nhiều di sản lịch sử, văn hóa lớn mang dấu ấn Phật giáo Việt Nam, điển hình là chùa Long Đọi, tại xã Tiên Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam được xây dựng từ năm 1054, sau đó là tấm bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, được khắc dựng vào năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121), cũng do vua Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ Lan Lê Thị Khiết chủ trì xây dựng, nay trở thành Bảo vật quốc gia.
Các tôn giáo du nhập vào Việt Nam đều phải Việt hóa ở chừng mực nhất định, nếu không khó tồn tại, chưa nói đến phát triển, bởi Việt Nam “Tổ quốc là trên hết”.
Cũng như cả nước, trên địa phận tỉnh Hải Dương hiện nay, Phật giáo an nhiên phát triển trải các triều Đình, Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc rồi Nguyễn, phát triển từ kinh đô đến các làng xã. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hầu như làng xã nào cũng có chùa. Trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoạt động tôn giáo tín ngưỡng có nhiều khó khăn, chùa tháp mai một, tín đồ ít có điều kiện đến chùa, vì cả nước tập trung cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,  không những thế lại còn vấn đề nhận thức về tôn giáo, tín ngưỡng chưa thật khách quan. Sau đổi mới, các công trình thuộc lĩnh vực này được Đảng và Nhà nước quan tâm, trong đó có Phật giáo được khôi phục từng bước, các công trình tôn giáo được trung tu, tôn tạo Chúc tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam là một ví dụ. Tín đồ được hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ của Hiến pháp.
Khi nghiên cứu một tôn giáo nào cũng phải quan tâm đến bốn vấn đề trọng yếu: Đội ngũ chức sắc, cơ sở vật chất, hưởng ứng của tín đồ, sự quan tâm của nhà nước và chính quyền sở tại, thiếu bốn yếu tố này, tôn giáo nào cũng không thể tồn tại.
Đội ngũ chức sắc hay tập thể các vị tu hành trên đất Xứ Đông thật hùng hậu. Thời Bắc thuộc thật khó xác định được những nhà sư nổi tiếng ở Xứ Đông khi tư liệu thành văn tuy có nhưng quá hiếm, nhưng từ khi nước nhà giành quyền tự chủ và độc lập thì di tích và tư liệu không nhiều nhưng vẫn có thể nghiên cứu được ở mức độ nhất định.
Trước hết là danh tăng Khuông Việt thiền sư Ngô Chân Lưu, nhà sư nổi tiếng ở triều Đinh, tuy không phải người Hồng Châu, nhưng ngài đã hưng công xây dựng chùa Động Ngọ từ năm Thái Bình thứ 2 (971), nay ngôi chùa vẫn còn với những di tích quý báu của ngàn năm văn hiến.
Thiền sư Kiều Bản Tịnh (1100 – 1176), ông sinh năm Canh Thìn, niên hiệu Hội Phong thứ tám, thuở nhỏ ông hiếu học, sửa mình theo đạo đức Nho giáo, sau xuất gia, đắc pháp với thiền sư Mãn Giác ở chùa Giao Thủy. Nam Đại Định thứ hai (1141), sư đến trụ trì một ngôi chùa trên núi Kiệt Đặc (Chí Linh), ngôi chùa ấy chỉ có thể là Huyền Thiên cổ tự, một ngôi chùa có di tích luyện đan, ảnh hưởng sâu sắc của Đạo giáo, đến cuối thế kỷ XVIII được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đương thời quan Hữu bật Ngụy Quốc Bảo kính phục đạo đức của sư, kính lễ như thày. Sau sư nhận lời thỉnh cầu của Thành Dương ng chúa đến trụ trì chùa Kiên An ở kinh đô Thăng Long.
Thời Trần, ba vị tổ của thiền Phái Trúc Lâm: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đều tu hành và thành đạt trong sự nghiệp xác lập thiền phái Trúc Lâm Việt Nam trên đất Xứ Đông, tu hành tại đây cho đến khi viên tịch. Nổi tiếng là Pháp Loa Đồng Kiên Cương, người hưởng Cửu La, (nay thuộc phường Ái Quốc thành phố Hải Dương), 21 tuổi mới xuống tóc, đi tu, 26 tuổi đứng đầu một thiền phái lớn của Đại Việt, sau 26 năm tu hành, nhà sư đã làm nên một sự nghiệp to lớn trong các lĩnh vực tu hành, đào tạo, xây dựng hùa tháp, viện tự, tạc tượng, đúc chuông, biên soạn, in kinh sách, có thể nói là vô tiền khoáng hậu của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam.
Tuệ Nhẫn quốc sư (1257 – 1325), nhà sư sống cùng thời với Tam tổ Trúc Lâm. Quốc sư có tên là Mộng Nhân, họ Vương, hiệu Quang Viên, quê Trà Xuyên (Ngũ Phúc, Kim Thành, Hải Dương), 19 tuổi học rộng các sách, quyết không sống cuộc đời trần tục, xin thụ giáo Kiên Huệ đại sư ở chùa Báo Ân, hương Siêu Loại ( Bắc Ninh), sau tu ở chùa Tường Quang, dân gian quen gọi nôm là chùa Non Đông, tức Đông Sơn, thuộc huyện Đông Triều và chùa Quang Khánh, xã Dương Mông, nôm gọi là chùa Muống thuộc huyện Kim Thành, quê hương của Quốc Sư. Ngài có công lớn với thiền phái Trúc Lâm trong giai đoạn này.
Đầu thế kỷ XVII, có thiền sư Mai Trí Bản có công tôn tạo chùa Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự được văn bia đương thời ghi nhận. nhưng nổi tiếng nhất phải là Chân Nguyên thiền sư Nguyễn Đình Lâm ( 1647 – 1726), người làng Tiền Liệt, Thanh Hà, Hải Dương, kế tục xuất sắc thiền phái Trúc Lâm, tôn tạo chùa Động Ngọ, trong đó tòa Cửu Phẩm liên hoa này còn tồn tại.
Từ triều Nguyễn và nhất là sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến này đã có nhiều tăng ni có công với đạo với đời, được nhà nước ghi công, nhân dân trọng thị, những vị đó đã được ghi nhận trong lịch sử Phật giáo và lịch sử địa phương.
Cơ sở vật chất hay thiết chế giáo đường của Phật giáo thật to lớn và đa dạng trên cả nước cũng như ở Xứ Đông. Riêng đại dư Hải Dương hiện nay có trên 1000 ngôi chùa lớn nhỏ. Nếu như thời Lý, Trần chùa tháp chỉ thấy ở những trung tâm văn hóa lớn thì đến thời Nguyễn hầu như xã nào cũng có, thậm chí có xã 4 chùa.
Từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần có những chùa tháp lớn như Tháp Tường Long ( Hải Phòng), chùa Động Ngọ, Minh Khánh ( Thanh Hà), Huyền Thiên, Quang Khánh         ( Kinh Thành), Quỳnh Lâm, Ngọa Vân, Hồ Thiên ( Đông Triều), Côn Sơn, Dương Nham, Bảo Lâm, Tường Vân ( Kinh Môn) ... đều trên đất xưa Đông.
Phần lớn chùa tháp thời phong kiến đã được khôi phục với quy mô khác nhau, có chùa lớn hơn trước, tức đương kim thắng cựu, tuy nhiên cũng có chùa chỉ bằng một phần khi hưng thịnh. Ví dụ chùa Quang Khánh từng có trên 200 gian, nay chỉ có vài chục gian tuy gian ngày nay có khác xưa.
Thời phong kiến, tư tưởng và chi thức Nho giáo phổ biến trong giới trí thức và tập quán của nhân dân. Văn chỉ, Văn từ được xây dựng ở hầu khắp làng xã, ngày nay tư tưởng Nho giáo vẫn còn nhưng mờ nhạt, cơ sở vật chất thì mai một. Đạo quán của Lão giáo trước Cách mạng đã không nhiều ở Xứ Đông, nay càng thưa vắng, lễ giáo hạ nhập vào hoạt động tín ngưỡng của Đình, Chùa, Đền, Miếu. Qua đây thấy Phật giáo ngày nay hưng thịnh như thế nào.
Di vật trong những ngôi chùa là những bảo vật quốc gia, từ điêu khắc, kiến trúc mang đặc thù dân tộc và vùng miền, nhất là những ngôi chùa xưa có nhiều cổ vật có giá trị. Trong số tượng Phật, bia ký, chuông, khánh hiện còn, giữ tỷ trọng rất lớn trong kho tàng cổ vật quốc gia. Trong số 5000 bia ký hiện còn ở Hải Dương, có tới quá nửa thuộc nhà chùa, trong đó có những tấm bia này là bảo vật quốc gia như: Bia chùa Chúc Thánh, Cổ Liêu Hương ( Mỹ Hào), Sùng Thiên ( Gia Lộc), Tháp Viên Thông, Thanh Hư Động ( Chí Linh)... Có được di sản to lớn đó, trước hết nhờ sự quan tâm của Đảng và nhà nước, chính quyền địa phương, sự hưởng ứng không chỉ của tín đồ mà của toàn dân về tinh thần, vật chất, công sứ với quan niệm “ Tích thiện dư khánh”, “ Vi thiện tối lạc”. Có thể nói, mục tiêu của Phật giáo đã hòa đồng với tín ngưỡng truyền thông của dân gian. Căn cứ bia ký hiện tồn có thể thấy các vua chúa thời phong kiến và các lãnh đạo thời hiện đại đều có dấu ấn tại những ngôi chùa lớn, tuy Phật giáo không phải là quốc giáo. Trong một bia ma nhai tại động Kính Chủ, khắn năm 1532, có ghi họ tên trên 800 người công đức tu tạo chùa khi đó, qua đây thấy sự ủng hộ của nhân dân như thế nào vào đầu triều Mạc ở Hải Dương. Trong 409 di tích đã xếp hạng các cấp ở Hải Dương có 124 ngôi chùa. 4 khu di tích được xếp hạng đặc biệt có 3 khu liên quan trực tiếp đến đại danh lam.
Từ di sản to lớn về vật chất cũng như tinh thần như trên đặt ra trước Ban trị sự cùng tăng ni và phật tử trong việc bảo tồn và phát huy, sao cho tôn tạo cái mới không làm mất cái cũ với tinh thần “ Vô ngã vị tha”, “ Chí công vô tư”, để mục tiêu của Phật giáo không mẫu thuẫn với chính sách của Nhà Nước và nguyện vọng của nhân dân. Nếu làm được như trên, Phật giáo mãi mãi là niềm tin và hi vọng của dân tộc.
Nguồn: Bài tham luận in trong “ Kỷ yếu hội thảo Phật giáo Xứ Đông trong dòng chảy văn hóa dân tộc” ( trang 52 – 56)
 

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây