Quá trình hình thành và phát triển vùng đất huyện Tiên Lãng

Thứ hai - 16/09/2024 20:43
Về cấu trúc đại chất, Hoàng Ngọc Kỷ và đồng nghiệp ( 1978) gọi đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng sụt võng Hà Nội. Ông đã chia chi tiết đồng bằng sụt võng thành 7 đới, trong đó có đới sụt Hải Dương – Tiên Lãng nằm kẹp giữa đới chuyển tiếp bắc – đông bắc và đới sụt không đồng nhất Hà Nội – Đông Quan ở phía tây nam. Đới sụt Hải Dương – Tiên lãng lại được chia thành khối nâng tương đối Hải Dương ( trầm tích bở rời chỉ dày 1000m) và khối sụt tương đối Tiên Lãng ( Trần tích bở rời đạt đến 2000m).
Quá trình hình thành và phát triển vùng đất huyện Tiên Lãng
I. VỊ TRÍ, CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT CỦA HUYỆN TIÊN LÃNG:
Về cấu trúc đại chất, Hoàng Ngọc Kỷ và đồng nghiệp ( 1978) gọi đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng sụt võng Hà Nội. Ông đã chia chi tiết đồng bằng sụt võng thành 7 đới, trong đó có đới sụt Hải Dương – Tiên Lãng nằm kẹp giữa đới chuyển tiếp bắc – đông bắc và đới sụt không đồng nhất Hà Nội – Đông Quan ở phía tây nam. Đới sụt Hải Dương – Tiên lãng lại được chia thành khối nâng tương đối Hải Dương ( trầm tích bở rời chỉ dày 1000m) và khối sụt tương đối Tiên Lãng ( Trần tích bở rời đạt đến 2000m).
Ở phạm vi hẹp hơn, khối sụt tương đối Tiên Lãng giáp với khối sụt tương đối Kiến An – Kinh Môn ở phía đông bắc và khối sụt võng Đông Quan ở tây nam.
Trong giai đoạn hiện đại, tại khối sụt Tiên Lãng, quá trình hạ lún vẫn xảy ra. Trên sơ đồ phân vùng địa mạo cấu tạo trũng Hà Nội của Klenier – Nguyễn Quang Hạp (1968), ngoài các đới gẫy Sông Lô và Kiến An có phương tây bắc – đông nam, còn có 3 đới gẫy phụ hướng đông bắc – tây nam chạy gần song song với đường bờ biển nằm ở phía bắc huyện. Giữa huyện và sát bờ biển, nằm ở đới động có các đứt gãy hoạt động tích cực. vì có giai đoạn Tân kiến tạo chạy qua Tiên Lãng, nên lỗ khoan số 14 của Đoàn khoan 36 khoan tại xã Bạch Đằng trong những năm ( 1962 – 1964) đã gặp nguồn nước khoáng nóng nằm trong tầng đá vôi tuổi các bon sớm, sâu dưới mặt đất 400m. Nước khoáng này có độ khoáng hoá là 18mg/l, nhiệt độ 54 độ C, lưu lượng chảy 500m3 /24h, chứa brom, I ốt và nhiều ion khác dùng tắm và chữa một số bệnh rất tốt.
II. ĐẶC ĐIỂM ĐẠI TẦNG:
1. Móng kết tinh và lớp phủ đá cứng:
Tài liệu địa vật lý và cấu trúc địa chất cho phép dự đoán móng đá kết tinh có đặc điểm giống các đá ở thượng lưu Sông Hồng, nằm chìm sâu 2 – 3km dưới bề mặt. Móng đá kết tinh được hình thành trong nguyên đại nguyên sinh, khoảng 570 năm đến trên 2 tỷ năm về trước.
Lớp phủ đá cứng lót đáy đồng bằng Tiên Lãng gồm các đá thuộc hệ tầng Xuân Sơn, gồm sạn kết, cát kết, sét, vôi, đá vôi màu xám chứa hoá thạch san hô vách đáy ( Tabulata) và tây cuộn ( Brachiopoda). Cát đá trầm tích thuộc hệ tầng Xuân Sơn có tuổi Silua muộn – Đề von sớm ( phải trên dưới 410 triệu năm trước) dày khoảng 500m, nguồn gốc biển nông.
Nằm trên hệ tầng Xuân Sơn là các đá kết Quắc zít tuổi Đề von giữa, nguồn gốc lục địa dày 300 – 500m, giống như đá gốc lộ ra ở bán đảo Đồ Sơn. Trầm tích nằm trên cùng của lớp phủ đá cứng là tầng đá vôi tuổi Các bon sớm dày trên 100m, giống như đá lộ ra ở Kiến An, Cát Bà.
2. Lớp phủ trầm tích Đệ Tam và Đệ Tứ:
Các trầm tích thuộc lớp phủ Đệ tam và Đệ tứ có bề dày khoảng 400 – 2000m, trầm tích Đệ tam ( thuộc hệ Neogen) gắn kết yếu. Các trầm tích hệ Đệ tứ ở trạng thái bở rời.
Theo mô tả của Hoàng Ngọc Kỷ và đồng nghiệp, tại lỗ khoan số 14B ở xã Khởi Nghĩa, trầm tích Holuxen dày 19,3m và được chia làm 3 lớp:
- Lớp 1: Từ 19,3 – 11,5m, bột cát màu vàng phớt xanh chứa nhiều mảnh vụn động vật thân mềm biển.
- Lớp 2: Từ 11,5 – 4,5m, bột sét màu xám đen chứa nhiều mảnh thân mềm vỡ vụn.
- Lớp 3: Từ  4,5 – 0m, sét cát màu vàng nâu, xám đen xen các lớp cát bột màu nâu gụ và mùn thực vật, lớp mỏng chứa các di tích thân mềm và trùng lỗ biển.
Có lẽ lớp 3 được hình thành trong điều kiện vùng triều. Hiện tượng bề dày lớp 4,5m vượt quá biên độ triều hiện nay (3,5m) phản ánh đặc điểm hạ lún của khu vực.
3. Đặc điểm địa mạo vùng đất huyện Tiên Lãng:
Vùng Tiên Lãng thuộc đồng bằng thấp ven biển hơi nghiêng về phía biển, kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam với tổng diện tích khoảng gần 200km2 , gồm 2 nhóm đại hình: nhóm địa hình Lục địa và nhóm địa hình biển.
III. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VÙNG ĐẤT TIÊN LÃNG:
Theo GS – TS Trần Đức Thạnh cùng các nhà nghiên cứu địa chất, Viện nghiên cứu Biển – Viện Khoa Học Việt Nam, nay là Viện Tài Nguyên Môi Trường Biển thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam và các thư tịch cổ, mảnh đất Tiên Lãng đã là lục địa vào thời kỳ trước Holoxen. Vào đầu Holoxen, do ảnh hưởng của đợt biển tiến sau băng hà ( Biển tiến Flandrian) mực nước biển dâng cao khoảng 100m và đạt xấp xỉ mực nước biển hiện nay ( 6000 – 5000 năm), biển tiến này tiếp tục và đạt độ cao nhất 4 – 5m vào khoảng 4500 năm về trước, làm chìm ngập phần lớn đồng bằng Bắc bộ, trong đó có vùng đất huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Dấu vết của đợt biển tiến còn ghi lại được ở khá nhiều nơi như ở Tràng Kênh, Cát Bà dưới dạng các ngấn mài mòn, vết bám hầu hà, các hang động cao 4 – 5m trong núi đá vôi ở Cát Bà. Ngoài ra, ở các nơi khác như Uông Bí, Hoành Bồ, Yên Hưng, dấu vết còn ghi lại ở các bãi cổ ( thềm biển) tầng trầm tích được lắng đọng trong thời gian này là cơ sở quan trọng hình thành nền đồng bằng ven biển.
Vào khoảng 4000 – 3000 năm về trước, biển rút xuống mực 3 – 4m, thấp hơn mực nước biển hiện nay và hình thành thềm biển bậc 1. Ở Tiên Lãng, dấu vết thềm biển bậc 1 còn giữ ở ba xã Đường Mười. Trong thời gian này, dấu vết đường bờ cổ được ghi lại ở Tiên Cường, Tự Cường ( Tiên Lãng) chạy qua Quang Trung, Trường Thọ ( An Lão) Lê Thiện, An Hoà, An Hồng ( An Dương), Mỹ Đồng, Kênh Giang, Lưu Kiếm ( Thuỷ Nguyên).
Sau đó lại xuất hiện đợt biển lấn Holoxen muộn cao hơn mực nước biển hiện nay khoảng 1,5 đến 2m. Vào khoảng 2500 năm trước, vùng đất Tiên Lãng lại bị chìm ngập một lần nữa, trừ phần tây bắc ( các xã khu vực đường 10) tây bắc Vĩnh Bảo, tây bắc An Lão – An Dương và đại bộ phận Hải Dương thuộc đồng bằng thấp ven biển. Một hệ thống các cồn biển được tạo thành trong thời gian này, dấu vết của nó được ghi lại ở các xã như: Khởi Nghĩa, Quyết Tiến, Tiên Thanh, thị trấn Tiên Lãng.
Dấu vết của đường bờ cổ trong thời gian này ( 2000 – 2500 năm về trước) có thể ghi lại ở các xã Khởi Nghĩa, Tiên Thanh, thị trấn Minh Đức của Tiên Lãng, xã Chiến Thắng ( An Lão), làng An Biên ( nội thành Hải Phòng), Hà Nam ( Quảng Yên – Quảng Ninh). Con đường 354 từ Hải Phòng về Tiên Lãng nằm gần trùng với đường bờ cổ, bãi chạy dọc đường bờ làm nên.
Từ khoảng 2000 năm trở lại đây xảy ra quá trình biển rút liên tục, mở rộng đồng bằng ven biển phía tây nam Hải Phòng, quá trình biển rút này đạt đến 1 – 5,5m dưới mực nước biển hiện nay vào khoảng thời gian 500 – 700 năm trước.
Quá trình biển rút này để lại nhiều dấu ấn, một hệ thống các cồn biển được hình thành mà dấu vết của chúng còn được ghi lại ở nhiều nơi: Cấp Tiến, Đoàn  Lập, Bạch Đằng, Quang Phục, Toàn Thắng, Tiên Thắng. Đường bờ ở giai đoạn này có thể vạch qua Cấp Tiến, Toàn Thắng, Tiên Thắng, chạy qua Tân Trào, Ngũ Đoan, Minh Tân, Đại Đồng, Anh Dũng ( Kiến Thuỵ), qua Tràng Cát, Đình Vũ, Cát Hải. Tuổi của hệ thống cồn cát đã được xác định là trước thế kỷ XI ( trước đời nhà Lý).
Vào khoảng 500 – 700 năm cách ngày nay, một hệ thống cồn biển được hình thành tiếp theo, dấu vết của nó còn thấy rõ ở Xuân Úc ( Bắc Hưng), Hùng Thắng, đồng thời xuất hiện một số vùng quanh khu vực này. Đường bờ cổ thời kỳ này chạyu qua Xuân Úc, Bạch Xa, Trung Nghĩa … ( Tiên Lãng), Đoàn Xá, Đại Hợp ( Kiến Thuỵ), Bàng La ( Đồ Sơn). Cửa Dương Áo đã được nhắc đến từ thế kỷ XV trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Tức là Dương Áo ( xã Hùng Thắng) đã xuất hiện cách đây ít nhất 500 năm. Đê biển ở Đoàn Xá ( Kiến Thuỵ) có ít nhất 500 năm tuổi, đó là cơ sở liên hệ đường bờ biển 500 – 700 năm về trước giữa các địa phương.
Từ 500 – 700 năm trở lại đây, vùng đất Tiên Lãng tiếp tục lấn ra biển, một hệ thống các cồn biển ở Vinh Quang mới được hình thành ( có 5 cồn lớn, diện tích sông Văn Úc đến cửa sông Thái Bình, cùng với hàng nghìn ha rừng ngập mặn đang phát triển, hứa hẹn vùng đất mới tiếp tục được mở rộng.
Từ thế kỷ XVII, sách “ Đồng Khánh dư địa chí” đã nhận định đặc trưng về nghề nghiệp của Tiên Lãng như sau:
“ Số người làm nghề nông và nghề buôn bán suýt soát ngang nhau”. Điều này chứng tỏ vùng đất này đã là trung tâm giao thương buôn bán hàng hoá cách đây vài trăm năm. Năm 1991, các nhà khoa học của Việt Nam đến kho lưu trữ của Công ty Đông Ấn Hà Lan tại Đen Haeng, đã phát hiện tấm bản đồ cổ mang tên De Rivier Toncquin. Đây là tấm bản đồ sông Đàng ngoài vẽ năm 1755, cách vẽ khá hiện đại, chính xác, trên bản đồ có đánh dấu một cảng thị quan trọng, là Domea, gần liền với toạ độ 200 45’ , trong bản đồ đó còn chỉ dẫn vị trí khá chính xác của bến Ốc và tháp Giang thôn An Dụ, xã Khởi Nghĩa. Đây là một cảng lớn của Đàng ngoài. Khi ấy, hàng hoá của phương tây và các nước đến tập kết ở đây rồi mới vào phố Hiến và Thăng Long. Gần đây các nhà khoa học Hà Lan và Việt Nam khải sát nhiều lần đã xác định vị trí của cảng Domea lập trước đây là tương đối chính xác.
Vùng đất Tiên Lãng có cư dân sinh sống, lập nghiệp từ rất sớm, có nhiều dòng họ đến định cư, lập nghiệp từ rất sớm, có nhiều dòng họ đến định cư, lập nghiệp từ rất sớm như: họ Nguyễn, Vũ, Trần, Lê, Phạm, Hoàng, Đinh, Đặng, Trịnh, Đào, Hà, Lưu, Đỗ … toàn huyện có tới hơn 30 dòng họ.
Do ở đầu sóng ngọn gió, luôn phải đấu tranh chống chọi với thiên nhiên và giặc biển, người dân Tiên Lãng từ lâu đã có truyền thống đấu tranh kiên cường, đã tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ thế kỷ I. Đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, đánh Nguyên Mông thế kỷ XIII … cuối thế kỷ XIX, người dân Tiên Lãng tham gia khởi nghĩa Bãi Sậy do Tán Thuật chỉ huy. Những năm 1946 – 1954, Tiên Lãng là khu căn cứ du kích nổi tiếng. Nhân dân Tiên Lãng đã vượt qua mọi khó khăn, phá tan trận càn mang tên Cơlốt, đem lại một chiến thắng có ý nghĩa chiến lược cho cuộc kháng chiến chống pháp.
Trận càn Cơlốt của thực dân Pháp diễn ra từ ngày 28/8 đến 20/9/1953. Đây là trận cán kéo dài nhất, ác liệt nhất, cuối cùng thắng lợi thuộc về quân và dân Tiên lãng.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Tiên Lãng có pháo đài thép Vinh Quang. Ngày 23/8/1963, du kích xã Vinh Quang đã bắt gọn toán biệt kích của Mỹ - Nguỵ từ ngoài biển xâm nhập vào. Ngày từ năm 1970, xã Vinh Quang đã được tuyên dương là đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Huyện có hàng vạn người tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chi viện cho Miền Nam thời kỳ chống Mỹ. Cả huyện có hơn 4000 liệt sĩ, hàng nghìn thương bệnh binh, có gần 500 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Là huyện có số thương binh, liệt sĩ và Bà mẹ Việt Nam anh hùng lớn nhất thành phố Hải Phòng. Cả huyện và 10 xã đã được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Văn hoá dân gian ở huyện Tiên Lãng có giá trị trên nhiều lĩnh vực, lễ hội, ca dao, tục ngữ, phương ngôn, nghệ thuật mang nhiều nét đặc sắc đại phương, phản ánh sinh động một số mặt sinh hoạt, cuộc sống và thiên nhiên vùng đồng bằng ven biển. Có những lễ hội độc đáo như lễ hội chợ Giải ( một năm chỉ họp chợ một lần vào ngày 02 tết Nguyên Đán) ở Hà Đới, xã Tiên Thanh. Lễ hội Mỹ Lộc, xã Tiên Thắng mang đậm yếu tố phồn thực, ước vọng về mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp. Hội đau thuyền ở Cầu Đầm, xã Đoàn Lập và lễ hội Cầu Đảo cho mưa thuận gió hoà … vật võ cũng là mộn thể thao truyền thống và nổi tiếng của người Tiên Lãng, phản ánh tinh thần thượng võ của vùng đất này. Hát đúm, hát giao duyên, hát chèo cũng là những nét đẹp văn hoá của dân Tiên Lãng.
Tiên Lãng có hai tôn giáo chính là Đạo Phật và Đạo Ki Tô. Cả hai tôn giáo này đều hướng phật tử và con chiên đến cuộc sống tốt đời đẹp đạo. Cùng hướng nhân dân đến Chân, Thiện, Mỹ. Trong kháng chiến, cùng đoàn kết chống ngoại xâm. Trong hoà bình, cùng đoàn kết xây dựng quê hương đất nước.
Đạo phật vào Tiên Lãng từ rất sớm, khoảng từ thế kỷ 5 – 6, với trung tâm Phật giáo ở chùa Đót ( xã Cấp Tiến) có kiến trúc, quy mô, bảo tháp và tượng Phật đồ sộ; Chùa Thiên Tộ ( ở Phác Xuyên, Bạch Đằng) có cả kho kinh sách lớn. Có thể nói, Tiên Lãng là một vùng đất cổ còn lưu giữ được rất nhiều những di tích đền, chùa, miếu mạo, cầu, quán chợ, văn chỉ. Tiêu biểu phải kể đến văn chỉ hàng huyện ở đường Rồng, thôn Ninh Duy, xã Khởi Nghĩa và những đền tiêu biểu mang tên “ Ngũ Linh Từ” ( 5 ngôi đền thiêng) đó là:
1 – Đền Để Xuyên (Đại Thắng)  thờ Trang Định Vương
2 – Đền Hà Đới (xa Tiên Thanh)  thờ Trần Quốc Thành
3 – Đền Gắm ( thôn Cẩm Khê – Toàn Thắng) thờ  Ngô Lý Tín
4 – Đền Bì ( thôn Tử Đôi - Đoàn Lập) thờ Bát Hải Đại Vương
5 – Đền Kinh Sơn ( Canh Sơn – Đoàn Lập) ngôi đền đá tinh xảo, thờ Kinh Sơn và Chí Minh Đại Vương
Số người đỗ đạc của Tiên Lãng thời phong kiến không nhiều ( 14 người đỗ đại khoa) nhưng cũng có những tên tuổi lớn như Tiến Sĩ, Thượng Thư Nhữ Văn Lan ( ông ngoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), tiến sĩ Phạm Bá, tiến sĩ Trần Bân. Ngoài ra còn có những người có công đóng góp trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá … Đặc biệt từ thế kỷ XVI, huyện đã xây dựng được từ chỉ (văn miếu) tại Đường Kê, thôn Ninh Duy, xã Khởi Nghĩa. Điều này phần nào nói lên Tiên Lãng từ xưa đã rất hiếu học và coi trọng chữ nghĩa, trí tuệ, văn chương.
Th.s: Vũ Minh Đức

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây