(Tham luận hội thảo KH: Phật giáo Xứ Đông trong dòng chảy văn hóa dân tộc)
Phạm Văn Thi, Hội VNDG Hải Phòng.
Trước hết cần khẳng định, văn hóa Phật giáo Việt Nam là một bộ phận của nền văn hóa dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm dung hợp với nền văn hóa bản địa của người Việt, Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ đã tiếp thu và biến đổi (tiếp biến) nhiều yếu tố văn hóa Việt Nam thành văn hóa Phật giáo của người Việt. Ngược lại, văn hóa bản địa Việt Nam, trong quá trình hòa hợp với văn hóa Phật giáo cũng tiếp biến nhiều nét văn hóa Phật giáo thành văn hóa dân tộc.
Trong tham luận này, tôi muốn trình bày ảnh hưởng của Phật giáo đối với ngôn ngữ và văn học dân gian, đối với nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng.
A - Sự dung hợp văn hóa Phật giáo trong từ ngữ Việt Nam.
- Trong kho từ ngữ nước ta, có nhiều từ ngữ có nguồn gốc Phật giáo mà ít người biết. Ví dụ: “Tội nghiệp” là từ người ta thường thốt ra khi thấy người khác gặp một hoạn nạn, một tai nạn, một cảnh ngộ thương tâm. Theo Phật giáo, “tội nghiệp” là tội của nghiệp, do nghiệp báo của người đó gây ra từ trước, dẫn tới tai nạn hay sự cố hiện nay. Theo thuyết nhà Phật thì không có một hiện tượng, sự việc, sự cố nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ là kết quả hình thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những nguyên nhân đó khi chín mùi (gặp duyên theo cách nói của Phật gia) thì đem lại kết quả. Mọi người hay nói câu “tội nghiệp”, nhưng không phải ai cũng biết đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất quan trọng của đạo Phật - thuyết nhân quả báo ứng. Thuyết đó trong dân gian được gọi bằng những câu châm ngôn như: “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặt bão”, “oan oan tương báo”..v.v... giống như câu châm ngôn của nhà Nho “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khương / Tích ác chi gia, tất hữu dư ương”. Nghĩa là: Nhà làm nhiều điều lành, sẽ có thừa điều lành / Nhà làm nhiều điều ác, sẽ có dư điều dữ. Thuyết nhân quả nhà Phật cho rằng, nếu người ta tạo nghiệp (gây tội hay làm việc thiện) ở kiếp trước hay kiếp này thì bây giờ hoặc sau này sẽ phải trả giá cho tội lỗi mà mình đã thực hiện trước đó hoặc có thể sẽ được hưởng phúc báu tùy theo việc thiện mà mình làm ngày xưa.
- “Hằng hà sa số”, vốn là câu nhà Phật thường dùng để nói lên nhiều như cát sông Hằng bên Ấn Độ. Thế mà nhiều người Việt Nam, dù có hiểu đạo Phật hay không, có biết sông Hằng ở đâu hay không nhưng vẫn nói “hằng hà sa số” để chỉ số lượng nhiều.
- “Lục tặc”, là câu dân gian chỉ việc xấu, tranh cướp, phá phách. Khi muốn ám chỉ kẻ xấu với hành vi tranh dành, phá phách hay cướp giật người ta hay gọi đó là “đồ lục tặc”, “lục lâm” (cướp rừng). Các bà mẹ khi thấy con nghịch ngợm, phá phách cũng hay nói “mày lục tặc lắm”. “Lục tặc” là một từ Phật giáo chỉ sáu loại giặc là: mầu sắc, âm thanh, hương, vị, xúc, pháp từ bên ngoài ảnh hưởng đến con người để quấy nhiễu chúng ta. Sáu loại giặc này hình thành bởi 6 giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của con người. Chúng thường xuyên đưa màu sắc, hình ảnh, âm thanh, hương vị và ý niệm, sự tưởng tượng vào quấy rối thân tâm của người tu hành. Phật khuyên người tu hành phải luôn tỉnh táo, không để cho sáu loại giặc ấy quấy nhiễu, phân tâm khi tu hành nếu muốn đạt kết quả. Một từ ngữ có ý sâu xa như vậy khi đạo Phật hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam đã được vận dụng thành danh từ chung chỉ người xấu, kẻ cướp.
- “Hiền như Bụt”, “tốt như Bụt” là câu mà dân ta hay nói để chỉ người hiền lành, nhân đức, hay cứu giúp người khác. Danh từ “Bụt” trong ngôn ngữ Sanskrit (tiếng Phạn) Ấn Độ là “Buddha” đã được dân ta Việt hóa trong quá trình lịch sử: Đầu công nguyên, khi Phật giáo truyền vào nước ta, từ Buddha tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt thành Bụt. Phật giáo Giao Châu (dưới thời Hán đô hộ) lúc này mang màu sắc Tiểu thừa (Nam tông), và trong quan niệm của người Việt, Bụt như một vị thần Tiên luôn có mặt ở khắp nơi, xuất hiện cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu. Đến thế kỉ IV-V, lại có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tông từ Trung Hoa du nhập vào. Nó đã lấn át luồng Nam tông có từ trước đó. Từ “Buddha” trong tiếng Hán được phiên âm thành “Phật đà”. “Phật đà” là âm Hán Việt của từ Trung Quốc, vào tiếng Việt được rút gọn lại còn “Phật”; từ đây từ “Phật” dần dần thay thế cho từ Bụt: Bụt chỉ còn trong các quán ngữ với nghĩa ban đầu. Ví dụ trong câu phương ngôn: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”, hoặc chuyển nghĩa thành ông tiên trong các truyện dân gian như “Tấm Cám”, “Cây nêu ngày Tết”, “Cây tre trăm đốt”...
- Từ “sám hối” là một từ của Phật giáo, gồm có hai thành phần là “sám” (tiếng Phạn là ksamayati) tức là thành tâm tự vấn bản thân, và từ “hối” là chữ Hán với nghĩa hối hận. Người Việt ta đã kết hợp nghĩa của hai từ Ấn Độ và Trung Quốc để thành từ Việt là “sám hối”. Dân ta cũng hay dùng từ hối hận, hối lỗi, thế nhưng khi cần nói kiểu văn vẻ, biểu hiện sự nghiêm túc thì lại dùng từ “sám hối” của Phật giáo. Ví dụ nói: “tôi sám hối và quyết tâm tu tỉnh” hay “hắn sám hối tội lỗi”.
- Từ “danh lam” trong tiếng Việt thường chỉ một nơi có phong cảnh đẹp. “danh lam” gồm hai âm tiết: “danh” là một từ Hán, chỉ danh tiếng, tên gọi. Còn “lam”, vốn là từ trong Phạn ngữ, gọi là “ashram” - chỉ nơi yên tĩnh, vắng lặng (thường được hiểu là chùa chiền, tu viện Phật giáo). Vậy nên người ta hay gọi những ngôi chùa cổ là danh lam cổ tự. Trong ngôn ngữ vay mượn, người Việt đã ghép 2 từ tiếng Hán và tiếng Phạn để tạo lên một danh từ có nghĩa rộng hơn từ “ashram” của Ấn Độ thành từ “danh lam”.
- Từ “chùa” xuất phát từ đâu?. Đây là một danh từ Phật giáo, nhưng gốc từ đâu thì lại là một vấn đề đang tranh cãi. Trong cuốn “Từ điển Phật học Việt Nam” (của nhà xuất bản Khoa học xã hội, tr. 132), sư thầy Thích Thiện Châu đưa ra giả thuyết là gốc từ “chùa” có thể là từ ngôn ngữ tiếng Phạn “Stupa”, vốn có nghĩa là bảo tháp thờ Phật, người Trung Quốc dịch âm gọi là “phù đồ” hay “đồ ba”, đọc âm Hán là Phù tô, hay là Thu ba. Người Việt Nam vốn thích gọi tắt, ngắn gọn, bèn phát âm là “chùa”. Từ “chùa” trong tiếng Việt có một từ Hán tương đương là tự (寺) nhưng “chùa” nhiều khả năng không phải xuất phát từ tiếng Hán mà được phiên âm trực tiếp từ một từ trong tiếng Phạn là स्तूप (stupa) có nghĩa là bảo tháp hay pagoda (tiếng Anh). Hiện nay, tên các ngôi chùa ở Việt Nam nói chung và ở làng quê Bắc Bộ nói riêng đều gọi theo tên chữ như: Hưng Khánh tự, Phúc Khánh Tự, Phổ Minh tự, Phổ Chiếu tự, Phúc Thắng tự, Kim Quang tự..., ngoài ra chùa làng còn được gọi theo tên nôm của thôn, làng như chùa chùa Đông Khê, Dư Hàng, chùa Vẻn, chùa Trung Hành..v.v..
- Trong tiếng Việt còn có một từ nữa chỉ nơi thờ tự Phật giáo là “chiền” (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏). Nhiều nguồn cho rằng từ “chiền” có gốc từ tiếng Phạn là caitya/cetiya với ý nghĩa tương đương. Vậy nên đôi khi trong văn phong, người Việt với thói quen hay ghép từ cũng nói “chùa chiền”, “lễ bái”, “đi đứng”, “ăn nói”...dù chỉ dùng một từ đơn cũng đủ thể hiện nghĩa rồi.
- Từ “Mít” (một loại quả) xuất phát từ Ấn Độ có tên gọi nguyên thủy ra sao?.
Vào đầu kỷ nguyên, khi Phật giáo hưng khởi, các tăng sĩ miền Nam Ấn Độ thường hay tới các nước khác truyền giáo. Đến đâu họ thường đem hạt giống cây trồng theo, khi đến Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa, họ đã đem theo hạt giống loại cây theo tiếng Ấn Độ được gọi là cây Paramita. Paramita theo dịch âm tiếng Hán là Ba la mật (chỉ đức hạnh Bồ Tát). Mà Bồ Tát là nhân vật tiêu biểu của Phật giáo. Paramita có nghĩa là đức hạnh hoàn thiện, âm Hán dịch đầy đủ là Ba la mật đa. Có thể là các tăng sĩ Ấn Độ thời ấy gọi cây đó là Paramita để tự nhắc nhủ mình về đức hạnh Bồ Tát chăng?. Đó là hạnh nguyện của các vị sư không ngại đường xa, gian khổ đi khắp nơi để truyền bá giáo lý của Phật. Từ đó về sau, người dân miền Nam Trung Quốc (nơi Phật giáo Tiểu thừa truyền từ Luy Lâu -Việt Nam sang) cũng theo các tăng sĩ truyền giáo Ấn Độ gọi đó là cây Ba la mật (họ bỏ âm “đa” ở cuối theo thói quen). Còn người Việt ta thì bỏ cả những âm đầu và cuối, từ “Paramita” giản âm hóa thành “mít” và chỉ gọi là cây mít, quả mít. Cây mít thường được trồng nhiều xung quanh chùa, gỗ mít được xem là gỗ thiêng, chỉ dùng làm mõ, tang trống, làm bàn thờ ..v.v...
Nhưng vì sao người Việt ta lại dùng từ “mít đặc” để chỉ người dốt, hỏi gì cũng không biết?. Phải chăng đây là một trường hợp biến nghĩa thường gặp trong ngôn ngữ. Một từ thuần nghĩa, sau khi đã xâm nhập vào dân gian thì hay bị biến nghĩa. Cũng như từ “thiên binh” mà Trung Quốc ngày xưa hay gọi quân đội của mình. Hoàng đế Trung Hoa gọi là thiên tử, triều đình Trung Hoa gọi là thiên triều, còn quân đội của vua Trung Quốc gọi là thiên binh (quân đội nhà trời) mà họ cho rằng đáng lẽ người dân Việt Nam phải kính nể, khiếp sợ. Ấy thế mà trong cuộc sống dân ta thường nói: “chuyện thiên binh, thiên tướng ấy mà”, ý nói chuyện phóng đại, khoác lác, không đáng tin. Có thể đây là trường hợp cũng giống như từ “mít đặc” nói trên chăng?, nó được dùng với hàm ý: nghĩa sâu xa bác học của từ “Paramita” làm người Việt chẳng hiểu gì, khiến người ta mù tịt.
- Danh từ Phổ Đà, Bổ Đà xuất phát từ đâu?:
Potala vốn là trú xứ của Bồ Tát Quan Thế Âm bên Ấn Độ và nhiều tên chùa được gọi bằng tên Potala (ở Tây Tạng chẳng hạn) mà người Trung Quốc dịch âm là Phổ Đà và người Việt phiên âm thành Bổ Đà. Ở thành phố Hồ Chí Minh có chùa tên là chùa Phổ Đà. Ở Bắc Giang cũng có chùa Phổ Đà, vốn là một ngôi chùa rất cổ và đẹp mà người dân, thậm chí cả sách, báo cũng viết là chùa Bổ - một cái tên nghe kỳ cục. Có ai biết cái tên kỳ cục ấy lại có nguồn gốc từ Ấn Độ. Như vậy, địa danh Potala được người miền Bắc viết thành Bổ Đà (rút gọn gọi là “Bổ”) và nếu viết là Phổ Đà như trong Nam thì đọc là Phổ. Tóm lại, cả hai từ Bổ Đà hay Phổ Đà đều là dịch âm từ Polata, là nơi ở theo truyền thuyết của Bồ Tát Quan Thế Âm bên Ấn Độ.
Như trên đã nói, người Việt không thích dài dòng, hoa mỹ nên chùa ở làng nào thì sẽ theo lệ làng ấy (phương ngôn: “chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”) và sẽ được dân gọi bằng cái tên dân làng ưa thích. Dù Potala hay Phổ Đà, Bổ Đà thì người dân cứ gọi là Phổ hay Bổ một cách gọn lỏn (cũng như cây paramita được người Việt gọi là cây mít).
Ví dụ: chùa Phổ Chiếu thuộc phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân được người dân gọi tắt là chùa “Chiếu”, chùa làng Xâm Bồ (phường Nam Hải, quận Hải An) được gọi là chùa Bồ, chùa làng Khúc Giản quê tôi được gọi là chùa Khuốc (tên nôm)..v.v...
B – Phật giáo hội nhập văn hóa Việt qua văn học dân gian và nghệ thuật sân khấu truyền thống.
Văn hóa Phật giáo trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ, thi - kệ.
Thời Lý đạo Phật được coi là quốc giáo. Câu tục ngữ “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” (đất đâu đâu cũng là của vua, chùa thì của làng, phong cảnh đẹp như thế giới Tiên - Phật) phản ánh điều kiện xã hội đời Lý chắc đã xuất hiện trước thế kỷ XII khi Phật giáo thịnh hành. Còn câu tục ngữ “Đất Bụt mà ném chân trời, chim thì bay mất, đất rơi xuống chùa” tuy hàm nghĩa rộng những cũng có thể đã xuất hiện khi Phật giáo còn rất thịnh ở Việt Nam.
Trong ca dao Việt Nam có câu:
Dù xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
Ở đây, “chín đợt phù đồ’ là chín bậc tháp hoặc tháp chín tầng, tức là một bảo tháp thờ Phật lớn, xây tốn kém. Làm phúc bằng cách bỏ tiền thực hiện một kiến trúc tôn giáo như vậy cũng không bằng làm phúc cứu một người khỏi khổ, khỏi chết. Đây là lời khuyên người ta nên làm phúc một cách thiết thực, cứu giúp người hoạn nạn, cơ nhỡ lúc nguy nan.
Câu ca dao trên tương tự câu phương ngôn “cứu một người hơn xây chín tòa bảo tháp”.
Giáo lý vô thường của Phật gia cho rằng đời người chỉ là sống gửi, sống tạm, không phải cuộc sống thật, nó có thể kết thúc bất cứ khi nào. Quan niệm này đã được thể hiện trong ca dao Việt Nam.
“Ðời người như bóng phù du
Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.
Sinh không, tử lại hoàn không,
Khó ta ta chịu, đừng mong giàu người”.
Đó là triết lý không có gì là tồn tại mãi mãi và cuộc sống của mỗi người được an bài bằng số phận định sẵn mà nhân dân ta gửi gắm trong ca dao.
Tư tưởng luân hồi - nghiệp báo cũng được thể hiện nhiều trong ca dao:
“Ai ơi! Hãy ở cho lành,
Kiếp này chẳng gặp, để dành kiếp sau”.
“Ở hiền thì lại gặp lành,
Ở ác gặp dữ, tan tành như chơi”.
Giáo lý nhân quả của nhà Phật được dân gian thể hiện qua câu ca:
Quả báo ăn cháo gãy răng,
Ăn cơm gãy đũa, xỉa răng gãy chày.
Nó cảnh báo người ta là làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả. Đừng vì cái lợi trước mắt mà làm điều sai, tội ác để phải chịu trừng phạt về sau.
Đạo đức hiếu nghĩa xuất phát từ lòng từ bi, là Bồ Tát hạnh. Trên cơ sở đó, lòng hiếu thảo, biết ơn trở thành nền tảng luân lý đạo đức thiết yếu mà bổn phận con, cháu phải ghi nhớ, thực hiện. Điều này được thể hiện qua lời răn:
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con chớ hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
Hoặc:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau.
Ở đây cây hạnh còn được gọi là cây quất (hoặc cây tắc), là loại cây quen thuộc trong đời sống. Ngoài lấy quả ăn, cây tắc còn có ý nghĩa đại cát, đại lợi, đông đủ, sum vầy, là loại cây không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền người Việt. Câu ca dao trên đề cao việc sống có nhân, có đức, để lại phúc cho thế hệ sau.
Trong quá trình truyền đạo ở nước ta, các tăng lữ Ấn Độ, Trung Hoa đã sử dụng những điển tích, chuyện dân gian của họ nhằm truyền tải lịch sử và giáo lý nhà Phật. Thế nhưng trong văn học dân gian, người Việt đã Việt hóa những nhân vật trong câu chuyện này thành nhân vật Việt Nam (như sự tích Quan Âm Diệu Thiện chùa Hương Tích) hoặc kết hợp nhân vật Ấn Độ (nhà sư Khâu Đà La) với người con gái Việt Nam (Man Nương) tạo nên đứa con gái “Thiên - nhân hợp nhất” kỳ lạ giữa hai nền văn hóa để rồi hóa đá trong sự tích Phật Mẫu Man Nương ở chùa Dâu (Bắc Ninh). Người con này được tôn là Phật nữ của Việt Nam và Man Nương trở thành Phật Mẫu của người Việt. Từ đó nảy sinh tục thờ Thạch Quang Vương Phật (người con gái hóa đá của sư Khâu Đà La và Man Nương) song song với tục thờ Tứ Pháp trong văn hóa dân gian.
Hình tượng Bụt trong dân gian Việt Nam thể hiện qua hình ảnh một ông lão râu tóc bạc phơ, tay cầm phất trần trong các tranh minh họa, truyện cổ tích là sự ảnh hưởng của đạo Lão (tu Tiên) trong văn hóa Việt. Bụt chính là Tiên - Phật trong quan niệm dân gian. Bụt thương người nhưng không trừng phạt kẻ ác như Ông Trời vẫn làm. Trời có thể giáng mưa, lũ, sấm sét hay thiên tai, sai thiên lôi đánh chết kẻ đại tội để trừng phạt con người với những tội lỗi nặng nề (quan niệm dân gian), nhưng Bụt thì không làm như vậy. Bụt - Phật, với triết lý “Từ bi”, “Hỷ xả” chỉ khuyên giải, chỉ phương cách để con người hối lỗi, tu tỉnh, diệt “tham”, “sân”, “si” để tự cứu mình thoát khỏi trầm luân, khổ ải. Trong truyện cổ tích Tấm - Cám, Bụt nhiều lần hiện ra, chỉ cho cô Tấm mồ côi cách thoát khỏi khó khăn, đau khổ ra sao nhiều người trong chúng ta chắc cũng đã biết..
“Hiền như Bụt” là câu người ta so sánh một người nhu mì, hiền lành. Ông Bụt hiền và nhân đức... đó là hình tượng đức Phật trong dân gian Việt Nam. Ông thương người, cứu giúp kẻ hoạn nạn, đặc biệt là người côi cút, cô đơn, bị ức hiếp như cô Tấm trong truyện Tấm Cám, người em út trong truyện Cây Khế, thằng Giun trong truyện Hét và Giun, người xấu xí trong truyện Sọ Dừa..v.v..
Ông Bụt trong dân gian Việt Nam hiền lành, nhân hậu tới mức không biết giận là gì, cho nên, thậm chí người ta không gọi là đức Bụt hay ông Bụt mà chỉ gọi là Bụt cụt ngủn, nhưng thân thương. Có phải vì Bụt hiền quá mà dân gian đâm nhờn trong câu ca dao:
Gần chùa gọi Bụt bằng anh,
Trông thấy Bụt lành, cõng Bụt đi chơi.
“Gần chùa gọi Bụt bằng anh” cũng là câu thành ngữ thường được dân ta dùng để ví von, ý muốn nói rằng sự gần gũi, thân thuộc thường dẫn đến thói suồng sã, bất kính.
Thậm chí còn hỗn hào hơn trong câu ca dao:
Gần chùa gọi Bụt bằng anh
Trông thấy Bụt lành, hạ xuống đất chơi.
Với lối suy nghĩ giản đơn, thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa nên mới nói “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa” (ca dao). Họ coi trọng việc thờ ông bà, cha mẹ hơn là thờ Phật: “Tu đâu cho bằng tu nhà/thờ cha kính mẹ mới là chân tu” (ca dao); hoặc: “Phật trong nhà không thờ đi thờ Thích Ca ngoài đường” (tục ngữ).
- Trong thành ngữ Việt Nam có câu “Vắng như chùa Bà Đanh”, hoặc “Vắng tanh như chùa Bà Đanh” với hàm ý chỉ nơi vắng vẻ, đìu hiu. Vậy câu nói này xuất phát từ đâu?.
Hiện nay ở nước ta có vài ngôi chùa được nhân dân gọi là chùa Bà Đanh. Điển hình là Chùa Bà Đanh ở Hà Nam “Bảo Sơn Nữ tự” (vốn xưa kia thờ nữ thần Tứ Pháp). Tên gọi Bà Đanh xuất phát từ truyền thuyết địa phương. Do chùa thờ nữ thần thiên nhiên giúp mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu nên người dân gọi là chùa Đức Bà làng Đanh Xá, sau gọi tắt là chùa Bà Đanh. Ngày xưa xung quanh chùa Bà Đanh là rừng rậm, có nhiều thú dữ, hay tấn công con người, cộng thêm đường đi tới chùa lại khó khăn bất tiện (thường phải đi đường sông dể tránh thú dữ) nên ngày càng vắng vẻ, ít người lui tới.
Còn có một ngôi chùa nữa ở Hà Nội cũng được gọi là chùa Bà Đanh. Đó là ngôi chùa nằm sâu trong ngõ 199B làng Thụy Chương nay thuộc phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ. Chùa được xây dựng vào thời Lý Thánh Tông, làm nơi sinh hoạt tôn giáo cho những tù binh Chiêm Thành bị nhà Vua bắt về trong chuyến chinh phạt nước đó. Thời đó người Việt không lai vãng tới chùa này nên rất vắng vẻ. Đến khi người Chăm không còn thờ cúng tại đây thì nó trở thành phế tích. Còn lý do nữa (theo tôi là chính) mà chùa được gọi là Bà Đanh là bởi tại chùa (thực chất là đền) này đặt tượng Pô Yan Dari của người Chăm Pa - nữ thần phồn thực trong tín ngưỡng người Chăm. Vị nữ thần này được tạc bằng đá, hai chân dạng ra một cách thô lậu. Bởi vậy nên người Việt mới gọi đền là đền Bà Banh. Sau người ta gọi lái đi là Bà Đanh cho giảm bớt sự thô thiển ấy đi. Khi người hiếm muộn cầu có con thường đến đó dùng chày đá chọc vào bộ phận sinh dục nữ thần.
Ở Hải Phòng cũng có một ngôi chùa có tên Bà Đanh. Đó là chùa Trà Phương hay còn gọi là chùa Bà Đanh (tên chữ Thiên Phúc tự) tại làng Trà Phương, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng. Chùa lúc đầu có tên là chùa Bà Đinh, tọa lạc trên một gò cao, cây cối rậm rạp, cách chùa ngày nay khoảng 200m về phía Nam. Chùa được xây dựng, khoảng đầu thế kỷ XI (1010 - 1020) thời Lý và được trùng tu tôn tạo lớn vào thế kỷ XVI đời nhà Mạc, từng là trung tâm Phật giáo vùng Duyên hải Bắc bộ thời kỳ đó. Nguyên nhân tại sao người dân lại gọi chùa này là chùa Bà Đanh thì hiện chưa có tài liệu nào lý giải. Do sự trả thù khốc liệt của triều đình Lê-Trịnh đối với những gì liên quan đến nhà Mạc mà chùa Trà Phương sau khi nhà Lê trung hưng ít người lui tới nên vắng vẻ. Có lẽ cũng vì thế nên tên chùa Bà Đinh được dân gọi lái đi thành Bà Đanh chăng?.
Các tín đồ nhà Phật có thể khó chịu với những câu thành ngữ, ca dao nói về Bụt - Phật hay tên gọi chùa theo kiểu khôi hài, nhưng họ phải hiểu rằng tầng lớp bình dân Việt Nam thường có tính tếu táo, thậm chí tục tĩu nữa, nhưng trong thâm tâm, người lao động hiền lành, chất phác vẫn coi đức Phật là thiêng liêng, đáng kính trọng và chùa chiền là nơi linh thiêng, không được phạm thượng. Văn phong bình dân có thể có những câu, những tích như trên, nhưng văn chương bác học (thơ, phú, kệ) của các nhà nho, các thiền sư, các bậc quân vương tu Phật như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông...thì lại chứa đầy triết lý nhân sinh, triết lý thiền sâu sắc.
Cuối đời Trần, khi dòng thiền Trúc Lâm suy vi qua ba đời truyền thừa thì có hai dòng thiền Trung Quốc được du nhập vào nước ta. Đó là đòng Lâm Tế và Tào Động. Tại Trung Quốc, lối khai mở nhận thức cho đệ tử hai dòng này đều chú trọng vào những thuật dụng như công án (hay thoại đầu) và đánh, hét.
Xuất phát từ bản tính hiền hòa của người Việt, khi du nhập vào Việt Nam, các dòng thiền Lâm Tế, Tào Động trên miền Bắc nói chung, xứ Đông nói riêng đã được các thiền sư Việt Nam biến đổi phương pháp khai ngộ đệ tử, chỉ áp dụng công án, không còn sử dụng kiểu đánh, hét. Trong đó thường dùng lối khai mở nhận thức cho đệ tử bằng thơ, kệ như một hình thức công án.
Một số ví dụ:
Có một đệ tử hỏi: Thế nào là gia phong Phật quá khứ?
Phật Hoàng Trần Nhân Tông đáp:
Vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc
Lý trắng đào hồng hoa tự nhiên.
Lại hỏi: Thế nào là gia phong Phật hiện tại?
Phật Hoàng đáp:
Gia phong sóng bạc mê yến sớm
Tiên uyển đào hồng say gió xuân.
Lại hỏi: Thế nào là gia phong Phật vị lai?
Phật Hoàng đáp:
Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt
Xóm chài nghe sáo khách nhớ nhà.
- Hỏi: Gia phong Hòa Thượng thế nào?
- Phật Hoàng đáp:
Áo rách che mây sáng ăn cháo
Bình xưa rưới nguyệt tối uống trà.
Đại loại là như vậy.
2) Ảnh hưởng Phật giáo trong truyện thơ Nôm và nghệ thuật sân khấu truyền thống.
Chùa Việt Nam không chỉ là nơi tôn nghiêm thờ Phật, chùa còn là nơi người ta tìm đến nương nhờ lúc khổ đau, nơi người ta giãi bày những uất ức, buồn phiền và cầu sự giải thoát lúc khủng hoảng tinh thần, cầu tình yêu, cầu tự (con nối dõi). Nhiều ngôi chùa, với cảnh trí đẹp đẽ, yên bình còn là nơi người ta đến để vãn cảnh, thư giãn tâm hồn. Vậy nên mới có câu ví “vui như đi trẩy hội chùa”. Chùa đôi khi là nơi hẹn ước của các đôi trai gái yêu nhau như trong truyện thơ nôm Phan Trần hay trong câu ca dao “Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”.
Dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao:“Làm trai chớ kể Phan Trần/Làm gái chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” để khuyên người ta không nên sa đà vào chuyện tình yêu đôi lứa táo bạo nơi cửa thiền như trong truyện thơ nôm Phan Trần hay buồn khổ, chia ly như trong truyện Kiều. Điều này là do quan điểm đạo đức xã hội cuối thế kỷ 18 (thời gian ra đời của truyện thơ Phan Trần) là nên tránh xa những mối tình ngoài lễ giáo phong kiến.
Tuy rằng truyện Phan Trần có nguồn gốc từ câu truyện đời Tống bên Trung Quốc kể về mối tình đôi trai gái Phan Tất Chính và Trần Kiều Liên nơi cửa Phật nhưng khi du nhập vào nước ta, nó không còn mang tư tưởng của người xưa mà phản ảnh tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ 18 trở về sau. Tư tưởng Việt Nam là một tinh thần nhân ái, không khắt khe về tôn ti trật tự xã hội như tư tưởng Khổng giáo. Do đó tác giả khuyết danh truyện thơ Nôm “Phan Trần” đã cho phép tình yêu trai gái được nảy nở trong khung cảnh nhà chùa. Điều này phù hợp với tình cảm tự nhiên của con người là tình yêu lứa đôi có thể phát triển trong mọi hoàn cảnh. Tác giả không lên án tình yêu nơi cửa Phật như những nho sĩ cùng thời theo truyền thống Khổng Mạnh, bởi lý giải hoàn cảnh nào đã đưa đẩy đôi trai gái đến cuộc hôn nhân. Và từ đó, chúng ta có thể cảm thông với hai nhân vật mà theo quan niệm thời đó là đã đi quá vòng lễ giáo.
Sự tích Quan Âm Thị Kính được lưu truyền phổ biến trong dân gian Việt Nam từ xưa qua các vở chèo, truyện thơ và gần đây nhất là truyện văn xuôi.
Căn cứ vào nội dung của truyện Quan Âm Thị Kính thì có thể đây là một dị bản của truyện Phật giáo Cao Ly (Triều Tiên), trong đó Thị Kính là con gái của nhà họ Mãng, quận Lũng Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly. Truyện được Việt hóa từ Truyện thơ Quan Âm Nam Hải, mà theo tác giả Nguyễn Lang (sách “Việt Nam Phật giáo sử luận” tập 2, thì: “truyện Quan Âm Nam Hải vốn xuất phát từ một tăng sĩ đời Nguyên bên Trung Quốc. Tích này được lưu truyền trên đất Việt từ khoảng cuối thế kỷ XIV hay đầu XV và được Việt hóa. Bản cổ nhất (chữ Nôm) của truyện Quan Âm Nam Hải vẫn chưa rõ được khắc vào thời gian nào”.
Vở chèo “Quan âm Thị Kính” được dựng từ truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” nói trên mang đậm tư tưởng nhân văn bác ái nhà Phật, mà trong đó một người con gái chịu nỗi oan tình là Thị Kính, trải qua sự nhẫn nhục, yêu thương, nuôi dưỡng đứa con hoang của Thị Mầu, kiên tâm tu Phật, đã trở thành Phật Quan Âm trong tâm thức người Việt mà dân gian gọi là Quan Âm tống tử.
Truyện thơ Quan Âm Thị Kính (tác giả khuyết danh) đã được lưu truyền trong dân gian nước ta bao đời, đến nay đã được chuyển thể qua nhiều hình thức như kịch, phim, tuồng, chèo, kịch múa đương đại…chứng tỏ sức sống của một tác phẩm nhân văn mang tính Phật giáo sâu sắc.
Đặc biệt truyện thơ “Quan âm Thị Kính” với thể lục bát dễ nhớ, dễ thuộc, nên nhiều người Việt, tuy không biết chữ như các cụ già ngày xưa, vẫn nhớ và thường dùng làm lời ru êm ái bên võng, nôi con trẻ. Điều đó nói lên ảnh hưởng to lớn của tư tưởng nhân văn Phật giáo trong đời sống văn hóa và tinh thần người Việt.
Để khép lại bài tham luận này, tôi có suy nghĩ như sau:
Tư tưởng (cũng có thể coi là văn hóa) Phật giáo rất thâm sâu, huyền diệu. Văn hóa Phật giáo Việt Nam và văn hóa dân tộc ta sau hàng nghìn năm dung hợp và tiếp biến đã trở nên gắn bó chặt chẽ như một thực thể không thể tách rời. Văn hóa Phật giáo ảnh hưởng sâu rộng đến từ ngữ, văn học dân gian và nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam và ngược lại văn hóa dân gian cũng được tiếp thu, biến đổi trong văn hóa Phật giáo. Bởi vậy không thể nghiên cứu văn hóa dân tộc mà bỏ qua văn hóa Phật giáo và ngược lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo với văn hóa dân tộc/Chử Thị Kim Phương//website:Chuaxaloi.vn. – số tháng 8/2015.
2. Sách “Lĩnh Nam Trích Quái”/Trần Đình Hoành///Website: WordPress.com - Truyện Đầm một đêm (Chử Đồng Tử-Tiên Dung); Truyện Man Nương.
3. Nguyễn Lang:Việt Nam Phật Giáo sử luận tập II; Nxb. Văn học; Hà Nội, 1992.
4. Truyện thơ Nôm/Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt: https://vi.wikipedia.org/wiki/
5. Quan Âm Thị Kính cách nghĩ của người Việt về phụ nữ Việt/Bảo Nhân//Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (78) 2006; Tr.27-31.
.........................
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn