PHẬT GIÁO THỜI TRẦN VÀ DÒNG THIỀN THÁNH TỔ NON ĐÔNG TRÊN VÙNG ĐẤT HẢI PHÒNG
admin
2025-04-03T22:45:22-04:00
2025-04-03T22:45:22-04:00
http://haiphonghoc.vn/vi/news/trao-doi-nghien-cuu-khoa-hoc/phat-giao-thoi-tran-va-dong-thien-thanh-to-non-dong-tren-vung-dat-hai-phong-176.html
http://haiphonghoc.vn/uploads/news/2025_03/z6458095771108_7049da14b110b45b5e5c0f8178cbac93.jpg
Hải Phòng học
http://haiphonghoc.vn/assets/images/logo.png
Chủ nhật - 30/03/2025 21:35
Vùng đất Hải Phòng xưa thuộc xứ Đông – Hải Dương cho đên ngày 19-7-1887, khi người Pháp cắt các huyện An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Thủy Nguyên, Tiên Lãng để thành lập tỉnh Hai Phòng (từ năm 1951 thêm huyện Vĩnh Bảo). Truớc đó, trong suốt nghìn năm lịch sử, sự du nhập, lan tỏa của Phật giáo, trong đó có dòng thiền Thánh tổ Non Đông thời Trần đã để lại những dấu ấn khá sâu đậm.
Vùng đất Hải Phòng xưa thuộc xứ Đông – Hải Dương cho đên ngày 19-7-1887, khi người Pháp cắt các huyện An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Thủy Nguyên, Tiên Lãng để thành lập tỉnh Hai Phòng (từ năm 1951 thêm huyện Vĩnh Bảo). Truớc đó, trong suốt nghìn năm lịch sử, sự du nhập, lan tỏa của Phật giáo, trong đó có dòng thiền Thánh tổ Non Đông thời Trần đã để lại những dấu ấn khá sâu đậm.
1. Phật giáo trên vùng đất Hải Phòng thời Trần
Theo nhiều nhà nghiên cứu, Phật giáo truyền vào Giao Chỉ, trước hết từ hai nơi là Nê Lê (Đồ Sơn, Hải Phòng) và Cửa Sót (Hà Tỉnh) rồi từ đó lan truyền tới Luy Lâu, thủ phủ của quận Giao Chi thời Bắc thuộc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Đây là một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương Đông vào đầu Công nguyên (cùng Lạc Dương và Bành Thành, Trung Quốc). Theo giáo sư Hà Văn Tấn và giáo sư Lê Mạnh Thát, đạo Phật được truyền vào nước ta từ thời Hùng vương. Thuở đó, Đồ Sơn là một đảo đất đá, cách đất liền khoảng 3 km, rừng rậm đầy sản vật, nước ngọt dối dào (năm 1914, đường từ nội thành sang đảo Đồ Sơn mới được mở). Ngư dân nhiều nơi, nhất là vùng Thanh - Nghệ, đến sinh cơ, lập nghiệp. Trên đảo có một số hang động rộng rãi. Thuyền buôn, thuyền đánh cá đi men ven biển cập đảo này và từ đây theo các dòng sông sẽ đi sâu vào nội địa khá thuận tiện.
Sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tác giả Minh Chi đã viết: "Có học giả dựa vào tài liệu Trung Hoa nói rằng, ở Giao Chỉ tại thành Nê Lê có bảo tháp của vua Asoka. Và học giả đó xác định thành Nê Lê, mà sử liệu Trung Hoa nói tới, chính là Đồ Sơn ở nước ta hiện nay", Theo tác giả Đạo Phật Việt Nam(1) khoảng 300 năm trước Tây lịch, ở Giao Chi, tại thành Nê Lê, tên của vùng Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng ngày nay, có bảo tháp vua A Dục (Asoka), do các Phật tử địa phương xây nên, để tri ân vua A Dục đã cử giáo đoàn tới đây để truyền đạo Phật. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của C.Madrolle, rằng Phật giáo truyền vào từ Nê Lê. Hiện nay các thế hệ người Đồ Sơn còn lưu truyền chuyện vào cuối đời Hùng Vương, ở đây có nhà sư Bần (sư Phật Quang), người Ấn Độ, lập ban thờ Phật tại hang núi (dân gọi là chùa Hang) và viên tịch tại đó. Ngài có giảng đạo cho Chử Đồng Tử. Theo Giáo sư Lê Mạnh Thát, “… cho tới ít nhất những năm 380 đến 420 những người đi hái củi ở nước ta còn thấy được chùa và tháp do vụa A Dục dựng tại thành Nê Lê” (2) . Trong Đồ Sơn bát vịnh có bài thứ 3 nhan đề Cốc tự tham thiền
nói về chủa Hang. Bài thứ 5 Tháp Sơn hoài cổ nói về tháp Dục Vương (Asoka). Từ đầu thời Lý, Đồ Sơn có tên là Tháp Nhĩ Sơn và thời Trần được chọn lập căn cứ thủy quân. Phải chăng tên Tháp Nhĩ Sơn nói lên việc trên núi có tháp Phật này.
_______________
(1) Thích Đức Nghiệp: Đạo Phật Việt nam, Nxb TP HCM, 1995, tr21-22
(2) Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam lược giải, tập I, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2006,tr.37
Như vậy, đảo Đồ Sơn và vùng đất ven biển của xứ Đông xưa là một trong những điểm đầu tiên tiếp nhận sự du nhập của Phật giáo, rồi theo đường thủy lan tỏa sâu vào nội địa.
Trải qua nghìn năm Bắc Thuộc đến triều Lý, Phật giáo tiếp tục du nhập vào nước ta. Đối với vùng đất Hải Phòng, năm 1058, vua Lý Thánh Tông cho dựng Tháp Tường Long (Đồ Sơn). Sách Việt sử lược đời Trần chép: “Năm Mậu Tuất niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 5 (1058), mùa thu, tháng 9, vua ngự giá ra cửa biển Ba Lộ, nhân đó ngự ra chỗ xây tháp ở Đồ Sơn. Năm sau (Kỷ Hợi, 1059), vua thấy rồng vàng hiện ra ở điện Trường Xuân. Nhân đó vua ban cho tháp ở Đồ Sơn tên hiệu là tháp Tường Long, ý muốn ghi lại một điềm lành”. Đây là một trong những biểu tượng phát triển của Phật giáo thời nhà Lý ở xứ Đông xưa.
Thời Trần, Phật giáo tiếp tục phát triển, với tính độc lập, tự chủ cao. Tư tưởng “Hòa quang đồng Trần” đuợc thể hiện rõ nét hơn hẳn Phật giáo thời Lý. “Phật giáo thời Lý là hạ tầng cơ sở thì Phật giáo thời Trần thuộc thượng tầng kiến trúc. Kế thừa tinh hoa Phật giáo thời Lý, Phật giáo thời Trần đã đi vào tổ chúc quy mô chặt chẽ hơn, kể cả bề rộng lần bề sâu, đưa Phật giảo tới đỉnh điểm vàng son bất nhị” (3). Nhiều nhà nho mô tả sự tăng thịnh của Phật giáo. Trương Hán Siêu thốt lên: “Thiên hạ năm phần thì sư tăng chiếm một”. Cao Bá Quát than rằng: "Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được người tin theo lâu bên như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật dù đến hết tiền của cũng không xẻn tiếc... chỗ nào có người ở tất có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên, nát đi rồi lại sửa lại, lâu đài chiêng trống chiếm đến nửa phần so với dân cư". Nhà sử học Lê Văn Hưu viết: "làm chùa thờ Phật lộng lẫv hơn cả cung điện của vua...nhân dân qụá nửa làm sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa” (4). Một trong những chính sách kinh tế của nhà Trần là phong cấp thái ấp cho các vương hầu quý tộc và những người có công để củng cố lực lượng bảo vệ chính quyền. Điều đó đã thúc đẩy việc vươn ra biển của người dân xứ Đông.
Miền đất quan yếu Hải Phòng thuộc xứ Đông được triều Trần hết sức chú trọng. Tiêu biểu là Hưng Ninh vương Trần Tung (đạo hiệu là Tuệ Trung thượng sĩ), anh trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, một quý tộc cao cấp nhà Trần, có thái ấp ở vùng Dương Chân (xã Quang Trung, thành phố Thủy Nguyên); Trần Quốc Thành, một võ tướng cao cấp thuộc dòng dõi quý tộc được phong thái ấp ở đất Bàng Hà (vùng Hà Đới, xã Tiên Thanh, huyện Tiên Lãng); Trần Quốc Bảo là cháu vua Trần được ban thái ấp ở vùng Tràng Kênh - Dưỡng Động (nay gồm phường Minh Đức và xã Bạch Đằng thuộc thành phố Thủy Nguyên). Công chúa Thiên Thụy có thái ấp ở vùng May - Mõ (huyện Kiến Thụy). Em gái bà là công chúa Chiêu Chinh được ban cấp thái ấp ở vùng Kha Lâm - Tây Sơn (phường Kha Lâm, quận Kiến An). Tại các nơi này, các hoàng thân, quốc thích đều cho xây dựng chùa tháp: chùa Mõ, chùa trên núi Đào Lĩnh, chùa Kha Lâm...Chùa Kha Lâm do Chiêu Chinh lập tổ chức nuôi day trẻ mồ côi, nuôi người già không nơi nương tựa, giúp người nghèo, đỡ người gặp khó. Công chúa mất ngày 3 tháng 6 nam Giáp Dần, thọ 56 tuổi. Dân Kha Lâm an táng bà tại nội tự, sau 3 năm đưa về làng Bảo Phúc.
_______________
(3) Thích Thanh Giác: Thơ thiền Phật giáo Việt Nam lược giải, Nxb Hải Phòng, 2019, tr.125
(4) Đại Việt sử ký toàn thư - dẫn theo GS. Trương Hữu Quýnh, GS.Đinh Xuân Lâm, PGS. Lê Mậu Hãn: Đại cương Lịch sử Việt Nam, 2009. Tr258-259
Thời kỳ này, đạo Phật du nhập vào Đại Việt từ nhiều đường và do sự tiếp thu của người dân Việt đương thời, không có một dòng duy nhất: Có dòng hòa nhập với tín ngưỡng dân gian Việt cổ truyền (Pháp Vân, Pháp Vũ, Diên Hựu...), có dòng thiên về Mật Tông (với những nhà sự giỏi pháp thuật và chữa bệnh...), có dòng tu ở chùa, thoát tục, có dòng tu tại gia lấy “cái tâm làm gốc”... Trên trào lưu chung đó, triều nhà Lý mong muốn tìm ra một tôn giáo, thoát khỏi những ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo đến từ phương Bắc, làm nền cho sinh hoạt tinh thần và tâm linh của người Việt. Dòng thiền Phật giáo đã được lựa chọn. Lý Thánh Tông đã có ý định sáng lập phái thiền Thảo Đường nhưng không thành. Ý tưởng của các vua nhà Lý được các vua đầu thời Trần tiếp nhận và thực hiện thành công, với dòng Phật Đại Việt – Trúc Lâm. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông vào núi Yên Tử xuất gia tại chùa Vân Yên (thời Lê đổi là Hoa Yên), lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Phát triển tư tưởng “phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”
Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đã dựng nên dòng thiền Phật giáo Đại Việt, với tên gọi Trúc Lâm. Trần Nhân Tông đã thống nhất ba thiền phái Tỳ ni đa lưu chi, Vô Thông Ngôn và Thảo Đường thành một thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và từ Yên Tử chuyển thành một Giáo hội Trúc Lâm. Xuất phát từ triết lý Thiền Tông “Trực chỉ nhân tâm kiến thành Phật”, dòng thiền Trúc Lâm chủ trương “Tâm là Phật”, “Phật ở trong lòng”, “Lấy tâm truyền tâm, không dùng văn tự”, "Phật ở trong lòng, lòng lặng lẽ mà sáng suốt, đó chính là chân Phật", nghĩa là “giác ngộ được bản tâm” là thành Phật. Tư tưởng thiền phái Trúc Lâm “Hòa quang đồng trần” thích hợp với tâm linh tôn giáo nguời Việt. Vì thế, thiền phái Trúc Lâm đã nhanh chóng phát triển, trong đó, có vùng đất Hải Phòng ngày nay. Trần Nhân Tông được coi là vị Tổ thứ Nhất của Phật Trúc Lâm, người kế tục là Pháp Loa và sau đó là sư Huyền Quang.
Các nhà nghiên cứu Phật học đánh giá: Trần Nhân Tông đã quy tụ các dòng thiền trước đó về một tông phái Trúc Lâm (Phật giáo nhất tông). Để duy trì hệ thống tổ chức giáo hội đã được thiết lập, ngài đã thể hiện một tầm nhìn chiến lược khi chọn và đào tạo Pháp Loa để truyền y bát. Phật giáo mà Trần Nhân Tông thiết lập nên là Phật giáo nhập thế, phục vụ dân tộc, xây dựng xã hội lành mạnh theo nền tảng của mười thiện nghiệp. Những quan điểm về Phật giáo của ngài được thể hiện chủ yếu qua các bài Cư Trần lạc đạo, Đắc phú lâm tuyền thành đạo ca. Ngoài ra, ông còn là tác giả của nhiều tác phẩm: Thiền lâm chiết chỉ ngữ lục, Trúc Lâm hậu lục Thạc thất mỵ ngữ, Đại hương hải ấn thi tập và Tăng già toái sự.. Những tác phẩm nảy bị thất lạc nhiều, hiện còn một số bài thơ chép trong Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục. Bài kệ của Trần Nhân Tông(5).
Vùng đất Dưỡng Chân (thành phố Thủy Nguyên, Hải Phòng) vốn là đất thang mộc An Sinh vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Ninh vương Trần Tung và Hưng Ninh vương Trần Tung có công lớn trong hình thành dòng thiền Đại Việt. Sách Tam tổ thực lục chép: “Nhân Tông tham khảo những yếu chỉ của Tuệ Trung Thượng Sĩ, thu lượm được nhiều tinh hoa của đạo Thiền, nên vẫn thờ Tuệ Trung là thầy”. Tịnh thất Dưỡng Chân là nơi Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông nhiều lần về thăm, tham vấn kế sách giữ nước, đàm đạo về Phật pháp và thế sự với Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung.
_______________
(5) Theo Website của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Tuệ Trung Thượng sĩ được vua Trần Thánh Tông rất kính trọng và tin tưởng ký thác kèm cặp Thái tử Trần Khâm (Trần Nhân Tông). Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung giảng dạy Phật pháp cho Trần Nhân Tông từ khi còn nhỏ. Nhờ đó, thời Trần, đạo Phật phát triển sâu rộng trên đất Thủy Nguyên. Nhân dân các làng xã dốc tâm xây dựng mới và tôn tạo những chùa tháp xưa ngày càng khang trang. Theo ghi chép của Phật giáo, Phật hoàng Trần Nhân Tông thường xuyên đi giáo hóa Phật Pháp. Ngài từ vùng đất Vĩnh Lại (Vĩnh Bảo) sang đất Tiên Minh, huyện Bàng Hà (nay là huyện Tiên Lãng), gặp phụ lão cung kính đón rước, cho là dân nơi đây biết lễ, bèn ban cho tên cho làng này là “Diên Lão”, rồi qua đò sang đất Nghi Dương... Do vậy, Thiền phái Trúc Lâm lan tỏa khắp vùng.
2. Dòng thiền Non Đông
Thánh tổ Quốc sư Quán Viên, hiệu Huệ Nhẫn, thế danh Vương Huệ (người xóm Cây Bàng, làng Muống, thôn Dưỡng Mông, tổng Phụ Tải, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương trước đây), tục gọi là Tổ Muống hay Tổ Cáy, Tổ Non Đông. Ngài là bậc danh tăng đức cao đạo trọng.
Thuở nhỏ, Ngài mồ côi cha, năm 19 tuổi xuất gia với Đại sư Kiên Tuệ ở chùa Báo Ân, Siêu Loại (Bắc Ninh), được Đại sư cắt tóc thụ giới Sadi, năm 20 tuổi được Đại sư Chân Giám ở chùa Nghĩa Trụ trao giới Cụ Túc. Sau khi đắc pháp, Ngài xin Tổ Kiên Tuệ về tu hành và xiển dương Phật pháp tại Non Đông (Đông Triều, Quảng Ninh), kiến lập đạo tràng, giảng kinh, thuyết pháp, tiếp nhân, độ chúng, nổi tiếng khắp vùng. Vua Trần Minh Tông ngưỡng mộ, xin quy y làm đệ tử, thường xuyên tới chùa bao sái tượng Phật và ban hiệu cho Ngài là “Huệ Nhẫn Quốc sư”. Ngài thường đem chính pháp thập thiện giáo hóa dân chúng bỏ tà quy chính, xóa bỏ dâm từ. Ngài viên tịch ngày 27 tháng Giêng năm Ất Sửu (1325), niên hiệu Khai Thái, đời Trần Minh Tông, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài hạc giá Tây quy cũng là những câu chuyện khá ly kỳ. Vua Trần Minh Tông dâng lời cảm thán:
Tự tòng Viên Công khứ thế hậu,
Thiên hạ Thích tử không vô nhân.
Dịch nghĩa:
Từ lúc Viên Công tạ thế
Chư tăng thiên hạ chẳng còn ai(6)
Đại Nam nhất thống chí chép: “Chùa Quang Khánh ở xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành, Sư Ông Mộng, đời Trần trụ trì ở đây, tu luyện đắc đạo, pháp thuật tinh thông. Vua Trần Minh Tông đau mắt, thầy thuốc điều trị không khỏi, đêm mộng thấy một thầy thuốc tự xưng là Ông Mộng, khi tỉnh dậy, không cần thuốc thang, mà mắt tự khỏi, bèn lấy tên người trong mộng, hỏi khắp các châu huyện, khi đến chùa này mới thấy, nhà vua sắc phong là Từ Giác quốc sư, lại phát tiền kho, tu bổ chùa quản, cho tên là chùa Quang Khánh. Đời Lê Hồng Đức, Thánh Tông đề thơ khắc vào đá, nay vẫn còn(7). Từ đó dân gian vẫn gọi là “Phật Ông Mộng”.
_______________
(6) Theo văn bia “Quang Khánh tự bi minh” do tiến sỹ, khoa Đinh Mùi (1487) Phạm Chiêu soạn, khắc năm Hồng Thuận thứ 7 (1515) và văn bia “Tường Quang tự bi” tạo dựng thời Trần.
(7) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống trí, tập 3, Nxb Thuận Hóa, 1992, tr.433
Vua còn sắc chỉ cho dựng 200 gian chùa tại nơi sinh quán của Ngài. Tương truyền, Tổ đã cho dựng được 72 ngôi chùa ở lộ Hải Đông, trong đó, có nhiều chùa trên địa bàn Hải Phòng ngày nay. Từ đó, sơn môn Non Đông lan tỏa khắp vùng. Thánh Tổ đi nhiều nơi giảng đạo, cử đệ tử, môn sinh trụ trì các chùa. Qua khảo sát các cổ tự, số chùa theo dòng thiền này trên địa bàn khá nhiều. Tiêu biểu, là các chùa Thiên Vũ, Kiến Linh, Hàm Long, Linh Phúc, Ngọc Hoa, An Lạc (Thủy Nguyên), Hưng Khánh (Hải An), Nguyệt Quang (Ngô Quyền), Mông Khánh, Khải Quang, Triệu Tường, Chiêu Tường, (An Dương), Đót Sơn, Thắng Phúc, Phúc Ân, Phú Kê, Thiên Tộ (Tiên Lãng), Nghiêm Quang, Sùng Quang (Vĩnh Bảo)... Trải thời gian và chiến tranh, các ngôi cổ tự trên đều bị xuống cấp, đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần hoặc được dựng lại. Do vậy, số bia ký, tài liệu ghi chép về sơn môn Non Đông còn lại không nhiều. Sau đây là một số chùa tiêu biểu liên quan đến dòng thiền này:
- Chùa Hàm Long
Theo Hòa thượng Kim Cương Tử, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong sách “Bút tích Hòa thượng Kim Cương Tử”, thì chùa Hàm Long và chùa Thiên Vũ là hai trong số 72 ngôi chùa do Đức Sư tổ Non Đông, quê ở làng Dưỡng Mông, tức làng Muống, Hải Dương cho xây dựng. Tại bút tháp chùa thấy môn đồ ngài Chân Nguyên Thông thiền sư (Tổ thứ 3 của phái Lâm Tế) sau chuyến nhập môn sang Trúc Lâm là Hòa thượng Tịnh Cơ đến khai hóa năm Chính Hòa thứ 23 (1702), đời vua Lê Huy Tông. Hòa thượng Kim Cương Tử còn cho biết: “Từ trước đến nay, cứ đến ngày 26 tháng Giêng Âm lịch, kỵ nhật Đức Thánh tổ, nhân dân khắp vùng gần xa trong huyện đến lễ bái rất đông, có quyển khoa cúng Thánh tổ sự tích ngài một cách đặc biệt”.
- Chùa Mông Khánh, theo tài liệu phát hành ở chùa cho rằng chùa được khởi dựng năm 1320, niên hiệu Đại Khánh thứ 7, đời vua Trần Minh Tông, là một trong 72 ngôi do Ngài Thánh tổ Non Đông cho xây dựng. Do thời gian và chiến tranh, chùa bị hủy hoại hoàn toàn, chỉ còn lại thạch trụ đài ghi năm xây dựng và trùng tu vào niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), đời vua Lê Duy Phường. Hiện tại, sự lệ hằng năm giỗ Tổ Vương Huệ (Tổ Non Đông) vào ngày 25 tháng Giêng.
- Chùa Nguyệt Quang, tương truyền, chùa được khởi dựng vào khoảng thế kỷ thứ II, III sau Công nguyên, ban đầu chỉ là một am nhỏ do các vị tiên công họ Trần của làng dựng lên. Đến thời Lý - Trần, chùa phát triển thành danh lam lớn, có uy tín trong vùng. Tại đây, Tam tổ thuộc dòng thiền Trúc Lâm đã từng qua chùa giảng kinh, thuyết pháp. Hiện nay, ở gian bên phải tòa bái đường còn ban thờ vua Trần Nhân Tông, người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm, với câu đối:
Công tán Trần triều đệ danh nhất
Uy bình Nguyên ngụy thế vô song
Dịch nghĩa: Công lao của nhà Trần được lưu danh bậc nhất;
Uy thế thắng giặc Nguyên là sức mạnh không gì địch nổi.
- Chùa Triệu Tường, theo văn bia, được khởi dựng từ thời Trần (1226 - 1400), trên gò đất cao, tương truyền do Thánh tổ Non Đông, người thôn Dưỡng Mông xây dựng, thuộc thiền phái Trúc Lâm. Chùa đã qua nhiều lần tu bổ. Hiện trong nội tự có các pho tượng Đức Thánh tổ Non Đông, tượng sư Tổ Nhẫn (Tổ chùa cùng thời với Ngài Non Đông), tượng Đức Ông, Quan Âm tọa sen, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Hộ pháp Khuyến thiện, Trừ ác, Phật hoàng Trần Nhân Tông trong thế nhập cõi Niết bàn... có niên đại thế kỷ 18. Đặc biệt, bệ đá hoa sen, cao 1,18 mét, rộng 1,15 mét, dài 2,80 mét, nghệ thuật chạm khắc tinh xảo. Các lớp cánh hoa sen dầy, so le, úp và ngửa, hoa như ý, 3 mảng chạm hình rồng trong khuôn lá đề lớn... phỏng theo phong cách nghệ thuật thời Trần, thế kỷ 13-14.
- Chùa Chiêu Tường, vốn là cố tự nổi tiếng, còn bảo lưu nhiều tác phẩm điêu khắc đá độc đáo. Truyền ngôn, chùa được xây dựng từ thời Lý (1010-1225) nhưng qua những tư liệu lịch sử, là một trong 72 cổ tự do Thánh Tổ Non Đông xây dựng vào thời Trần (1226-1400).
- Chùa An Lạc và Ngọc Hoa, từ những năm 1930, Hòa thượng Lương Ngọc Trụ, không rõ pháp danh, quê ở huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, xuất gia từ sớm, tu học tại chùa Muống quê nhà. Ngài là vị cao tăng đức độ, siêng năng việc tu hành và có lòng yêu nước, từng trụ trì nhiều chùa lớn như chùa Yên Cường (Kinh Môn) tỉnh Hải Dương, An Lạc, Ngọc Hoa, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1939. Ông Hoàng Ngọc Lương, trong vai nhà tu hành, đã bí mật được Hòa thượng che chở, nuôi dưỡng và giúp đỡ. Với uy tín của mình, Hòa thượng Lương Ngọc Trụ đã kết nối với các nhà sư trụ trì các chùa ở vùng thượng huyện Thủy Nguyên, như chùa Ngọc Hoa (làng Phương Mỹ), chùa Doãn Lại, chùa Vĩnh Am (xã An Lư)... Từ đó, các chùa trở thành cơ sở cách mạng. Chùa Ngọc Hoa (Phương Mỹ) trở thành một trong những nơi tập trung lực lượng tham gia khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Suốt hai triều đại lớn Lý - Trần, Phật giáo phát triển, “Dân tu, vua cũng tu". Một nhà Nho thời Trần đã thốt lên “phân nửa thiên hạ đi tu” và một điều chắc chắn rằng người xuất gia khá đông, người tu tại gia có thể là đa số dân chúng. Bức họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, do một họa sĩ thời đó vẽ cảnh đón Phật hoàng Trần Nhân Tông xuống núi, trong đó, có vua, quan và đông đảo Tăng ni, Đạo sĩ, Nho sĩ, nhân dân thể hiện sự hòa hợp, tam giáo đồng nguyên (Tranh hiện được trưng bày tại cung Càn Long, Bắc Kinh, Trung Quốc). Theo cố giáo sư Trần Văn Giàu: “Điều đáng chú ý là Phật giáo cực thịnh mà không nghe nói nó lấn át Đạo giáo và Nho giáo. Lấn át đạo khác không thuộc về bản chất của đạo Phật, ít nhất là đạo Phật ở xứ ta(8). Tình hình chính trị phức tạp của Đại Việt cuối thời nhà Trần đã tác động trực tiếp đến đạo Phật. Năm 1396, đời vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly, với chức Nhập nội phụ chính thái sư bình chương quân trọng sự, tước Tuyên trung vệ quốc đại vương, đã bắt tất cả các nhà sư chưa đến tuổi 50 phải hoàn tục và tổ chức thi khảo hạch tăng sĩ, ai thông hiểu giáo lý nhà Phật mới được ở lại làm sư. Việc xây dựng, tu bổ chùa chiền không có tài liệu ghi lại và những di sản Phật giáo trên địa bàn Hải Phòng hiện không còn mấy.
_______________
(8) Trần Văn Giàu (1980) - Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb KHXH, tr.70
Nhìn lại sau nghìn năm du nhập, đến thời nhà Đinh – Tiền Lê và Lý – Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, có sự dung hợp với tín ngưỡng bản địa, dung hòa giữa các tông phái Phật giáo, chịu ảnh hưởng của Mẫu hệ và cùng triều đình lo việc trị nước. Đặc biệt, thời Trần, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã sáng lập dòng Phật Việt Nam. Đây cũng là thời kỳ lịch sử hào hùng trong công cuộc xây dựng đất nước và chống xâm lăng, bảo vệ bờ cõi, tăng cường nền tự chủ của dân tộc ta. Đối với miền đất Hải Phòng, Phật giáo tiếp tục lan tỏa và chịu ảnh hưởng sâu sắc của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và sơn môn Non Đông. Nhiều chùa tháp được bảo tồn, xây dựng và phát triển tới đỉnh cao của văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo. Mọi người, từ quan lại đến thường dân, luôn hành hương “lên chùa” thắp nén hương thơm cầu an, cầu phúc.
Tài liệu tham khảo
1. Đại Việt sử ký toàn thư (1997), Nxb Thời Đại, Hà Nội,
2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng-Hội Khoa học Lịch sử thành phố Hải Phòng (2022): Lịch sử Phật giáo thành phố Hải Phòng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội
3. GS. Trương Hữu Quýnh, GS. Đinh Xuân Lâm, PGS.Lê Mậu Hãn (2009): Đại cương Lịch sử Việt Nam, toàn tập, Nxb Giáo dục Việt Nam
4. Lê Mạnh Thất (2006): Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh
5. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992): Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Nxb Thuận Hóa, Huế
6. Trần Văn Giảu (1980): Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb KHXH
7. Thích Thanh Giác (2019): Thơ thiền Phật giáo Việt Nam lược giải, Nxb Hải Phòng
8. Thích Đức Nghiệp (1995): Đạo Phật Việt Nam, Nxb TP HCM.
Nguồn : Bài tham luận đăng trong “Kỷ yếu hội thảo khoa học vị thế chùa Quang Khánh trong lịch sự phật giáo xứ đông nhân kỷ niệm 700 năm ngày viên tịch quốc sư Huệ Nhẫn (1325-2025)”